18.3.10

Nỗi đau ngày ba mươi


Những cơn đợi không lẽ dài hơn nữa
mỗi tháng tư qua thêm chút buồn theo
năm thứ năm đã thấy quá bọt bèo
nói chi là tới lúc này ta vẫn đợi
giặc chuẩn bị ăn mừng ngày thắng lợi
cờ treo đầy như phủ kín trại giam
ta đứt ruột nghe tiếng loa vang vang
buồn như thể chuyện xưa đang dựng dậy

Cuối tháng tư cơ hồ như còn thấy
quân hối hả về, người bỏ xứ đi
giặc chiếm thành thì chẳng nói làm chi
không tiếng súng, mà trói tay đành đoạn
ai cũng mong chấm dứt thời ly loạn
khi máu xương đã đổ quá nhiều rồi
nhưng xuôi tay như vầy thật là tội
cho những người từng cầm súng đấu tranh

Thôi thì đã cùng đường đành một kiếp
không có cơ may để dựng lại cơ đồ
cứ cúi đầu nói đại tiếng hoan hô
để mà thấy ruột gan đau từng đoạn
chút sĩ diện là lặng yên nhìn bầy thú
múa vuốt, nhe nanh nén nhục qua ngày
tránh được lúc nào coi đó là may
trong chịu đựng phận một người thua trận

~*~ ~*~

Ôi! ba mươi, tháng tư, ngày quốc hận
ta trùm mền giả như sốt từ lâu
nằm rên la cho giống kẻ đau đầu
để khỏi phải tham gia ngày oan nghiệt
ta biết thái độ nầy không tránh khỏi
chống đối trong tù giặc chẳng tha đâu
cùng lắm là cùm, nghĩ mệt ít lâu
còn hơn chường mặt mà sôi máu giận

Tù cùng đường đành chờ trong vô vọng
dù thắng, thua đã thực hết nước cờ
kệ cứ coi như là mình nằm mơ
biết đâu có cơ may mà làm lại
chín năm nay cứ ngày này ta bệnh
cứ ngày này lòng ta rất là đau
thấy cờ giặc là máu nóng đã trào
nói chi phải đứng nghiêm mà chào nó

 
nguyễn thanh-khiết
A 20 - 30-04-1986






Cái chết đau


hắn chết khi gà rừng gáy sáng
chia tay đời tù tội mười năm
mắt mở nhìn đâu đó xa xăm
như đợi, như chờ người vuốt mặt

ba mươi tuổi cỗi cằn má hóp
lao phổi trong tù thì còn chi
phút cuối hắn thì thào “tao đi”
chưa kịp dặn bạn bè trả hận

hắn chết, mang theo nhiều căm phẫn
mẹ già năm năm chưa gặp con
đi thăm nuôi lê đôi dép mòn
mẹ tới trại vào ngày hắn chết

tội mẹ già van xin khóc kể
đưa xác về quê, giặc lắc đầu
lần cuối nhìn mặt chẳng được đâu
nói chi mang xác tù ra trại

đêm Trường Sơn gió gào trên núi
mẹ khóc vùi ngoài cổng trại giam
nửa khuya giặc đóng vội áo quan
mang hắn đi về đồi vĩnh biệt

bà mẹ thương con làm sao biết
đã đi tù chết vẫn không tha
đòn thù giặc tính cả xác ma
chết cũng phải đền xong nợ máu

thứ nợ bác coi như cơm áo
đòi đến cạn cùng cho cháu con
bao phen thoát chết ở đường mòn
căm hận đó thuộc về chính sách

mẹ ra về, nắng nung tóc bạc
bụi mù mù tiễn bước già nua
A 20 mùa đông thổi, gió lùa
đảng cướp của mẹ thằng con nhỏ

 

nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa đông 1985
khi bạn ta nằm xuống





Chuyển trại

Không phải là nhà nên đi hay ở
Chuyện trong tù đi, ở chỉ bằng chơi
Có khi sáng ra đang ở giữa đồi
Chiều khăn gói đi xa thêm mười dặm
Phân trại B nằm sâu bên góc núi
Tù hai hàng giặc dí súng sau lưng
Mùa xuân đường rừng có chút rưng rưng
Bầy hoa lá cũng biết buồn trong gió
Tội những người già chiến chinh gối mỏi
Thở từng cơn trên đường dốc đầy gai
Mảnh cơ đồ là giỏ xách cầm tay
Đường xa nặng cơ hồ như muốn bỏ
Ta đi sau cùng chiến y rất nhẹ
Hai bộ đồ tù nghiêm, nghỉ thay nhau
Cái lon “gô” vật duy nhất bao ngày
Tắm, giặt, nấu ăn, đi cầu với nó
Cái lon mà đời thường không cần có
Trong trại tù chính nó bất ly thân
Chiều nhá nhem khu B đã tới gần
Cũng tường vôi, rào thép gai ngói đỏ
Ẩn bên trong những gì ta thấy rõ
Là gông, cùm, kìm kẹp nặng nề hơn
Ở tù mỗi khi chuyển trại xa thêm
Thì y hệt đường về xa chút nữa
Án tập trung thì khỏi cần chọn lựa
Mỗi ba năm tự ký lại ba năm
Ta cũng mặc cho mầy xa vạn dặm
Coi chỗ nào yên ta sẽ chọn nằm


nguyễn thanh-khiết
A 20 Từ phân trại E vào B 08-1983








13.3.10

Những đòn thù






Mười hai đội dàn ngang đầy cuốc xẻng
Giặc bày trò bác Hồ thích đào ao
Nắng tháng năm mặt trời đứng đỉnh cao
Ao đào chưa quá cổ, mồ hôi tù đã ngập
Giặc trên đê che dù chống nắng
Tù dưới ao nước nóng đầu trần
Tháng tháng qua đi, tù chết dần dần
Thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét rừng hành hạ

~*~ ~*~

Biệt giam, những phòng xây kiên cố
Một cây sắt dài khoá ở ngoài sân
Cùm chữ U lớn, bé xếp thật gần
Giặc chỉ chọn cái nào nhỏ nhất
Cổ chân lớn bỏ cùm vào quá chật
Giặc nói không sao, cầm cái lớn hơn
Một cái gõ thép lấn sâu vào thịt
Đòn thù nầy giặc không cần kìm kẹp
Hiến pháp không ghi, đó là luật trong tù
Máu ứa đầy chân, vết thương mưng mũ
Ngày qua ngày, tù chỉ nằm im
Một cái trở mình, nhức buốt tận xương
Thép chầm chậm ăn sâu vào trong thịt
Thắng lợi đó, đã ghi vào đảng tịch
Ngày tháo cùm, như lên máy chém chẳng khác nhau
Tù nghiến răng nuốt nghẹn cơn đau
Gõ ngược khoen cùm khi máu đã trào
Giặc rút mạnh, mặc cho tù ngất xỉu

~*~ ~*~

Ở biệt giam thứ gì cũng thiếu
Thiếu ăn, thiếu nước, chuyện đương nhiên
Một thúng cơm to đem tận mỗi phòng riêng
Kề tận cổ cho bọt miếng trào vì đói
Giặc chia phần cho mỗi tù nhân rất chậm
Ba muỗng cơm gạt ngang bằng miệng
Nước muối cũng ba, đổ trộn vào cơm
Nước uống một thùng nhưng phải chia ra
Ba muỗng ăn cơm không hơn không kém
Bác dạy rõ khi chia phải từ tốn
Đánh thức con mồi cái thú thèm ăn
Chậm, từ từ, chinh phục tù nhân
Bằng cơn đói, khát, chờ con mồi gục ngả

~*~ ~*~

Thuở tiền sử loài người có ác
Ăn thịt nhau là chuyện thường tình
Hoà bình, đảng thành công, ta có bác
Chuyện giết tù đâu cần tốn đao binh
Thắng lợi hôm nay trên thân xác tù nhân
Mà đảng dạy phải rạch ròi thêm nữa
Nóc biệt giam không cần kín hơn lớp cửa
Khi mưa về hãy để chảy vào trong
Tù khát, ngửa mặt uống – đừng hòng
Bác dạy rải vôi dầy lên là biện pháp
Nước vôi ngứa, mặn mà như chính sách
Để cho môi nứt khô, chết khát giữa mưa tràn
Chuyện đòn thù bác dạy phải sang trang
Cho xứng với Trường Sơn cháu con bác từng lội

~*~ ~*~

Xuân Phước, A 20, trại trừng giới
Ai từng qua đây, Ai ngả xuống nơi nầy
Những bia mộ trên đồi hoang là đây
Hãy thắp nén hương ngó về chỗ ấy
Mấy mươi năm qua những ai sống bình yên
Hãy cúi đầu trước những kẻ đã chết, nhưng còn nguyên
Từng chiến đấu trong âm thầm, trong danh dự
Máu, nước mắt xác thân không thể giữ
Và A 20 lịch sử một trại tù
Những bi thương chỉ đơn giản là một đòn thù
Dành cho những kẻ lỡ lầm buông tay súng

nguyễn thanh-khiết
đội 8, phân trại E, A 20
1982



12.3.10

Cổ thụ bên đường


Trước phân trại B là cây cổ thụ
một cây sung gốc lớn hai người ôm
đó là nơi vệ binh thường đứng đợi
đội đi làm vác súng chạy sau lưng
nó chỉ đơn giản là một cây sung
quanh năm nằm im cho đầy bóng mát
mỗi khi đi ngang nghe mùi thơm ngát
chín đỏ trên cành một thứ, trái sung
bốn năm vào đây ta nhìn nó tự dưng
thèm ghé lại sờ lên những trái chín
giặc thì ghét những bước chân bịn rịn
không ưa ta quay ngó gốc sung già
đội trưởng của ta một gã lưu manh
lon trung uý vô tù khai trung tá
vốn không ưa hạng người dối trá
nên ta bị đì suốt bốn năm dư
hắn không vui và ghét gốc sung nầy
chỉ đơn giản ta thường quay nhìn nó

Hắn không là ta, và như cổ thụ
mặt trời lên mát rượi một chỗ nầy
cái lá cong một hai chấm tròn, dầy
trên mặt lá là cây buồn, cây khóc
xanh biếc một màu mùa xuân đã đến
một chút vàng đi là lúc thu sang
khi đông về làm cây khom lưng xuống
khóc một kiếp tù, thương kẻ bước ngang
cây sung vẫn cao thêm, ta già thêm
cổng trại vẫn nắng, gốc già vẫn mát
ta thương cây sung, trơ trơ đứng đó
ta buồn một ta ngày nào cũng qua


Một hôm về ngang ta nhìn cổ thụ
một lỗ tròn mục rã phía bên trong
bầy sóc rừng đang hái trái chín ngon
trên cái đau của cành sung cổ thụ
ta ngó mình, ngó cây, buồn ảo não
trong thiên nhiên cũng có lắm kẻ thù
ta ở tù mới qua mười mùa thu
trong thu cũng có chút gì độc ác
cây sung già còn bao năm nữa sống
ta còn mấy năm để bước ngang qua
ta thẫn thờ nhìn cây sung của ta
mai hay mốt sẽ có lần ngả xuống
đời không yên không ngày nào cũng mát
tù không yên một ngày ta đi xa


nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa thu 1986





Năm thứ 10


tới năm này một cái điều vô nghĩa
ta có về hay nằm xuống nơi đây
hoặc đi thêm một đỗi nữa tù đày
thì cũng vậy có chi đâu là lạ
mười năm tự nhiên ta không muốn nhắc
không muốn ai để ý đến một thằng ta
coi như ta chết từ buổi đi xa
và chuyến đi đó không lần quay lại
năm thứ mười không còn buồn, không nhớ
hết thấy thương ngày tháng của xa xưa
chẳng thèm trông dù một lá thư nhà
chẳng muốn nhắc tên vợ, con, bè bạn
mới hôm trước anh em ngồi bàn tán
hội tù nhân can thiệp xoá trại giam
nhận tin vui nhất là những sĩ quan
những người đã dính dáng chính quyền Mỹ
ta bật cười khi anh em khoái chí
hỏi lúc về ta chọn chỗ nào đi?
trời! bây giờ ta đâu có ngu si
thả, cho về đã khó còn nói chi
đi? không lẽ xúi toàn dân chống cộng
cái xứ nầy cột đèn cũng muốn đi
ta mà đi? cả nước chống để được đi?
việt cộng đâu ngu mà không thấy
tập trung chính trị cái án bất dung
còn việt cộng là cả đời tù tội
năm thứ ba ta đã nhìn ra điều đó
tù trong, tù ngoài hai thứ như nhau
không vui, không buồn những chuyện lu bu
ta im lặng, đêm nhìn mình trên vách
tường nhà lao thì không bao giờ sạch
máu, mồ hôi, nước mắt đã thấm dầy
thứ ta sợ, bị thả ra lúc nầy
ta làm gì? đi đâu? và về đâu?
ba năm vác súng, ta thằng chống cộng
chống lúc một triệu quân chạy bỏ thành
chống khi giặc bắt đầu lập khai sanh
cho Sài-Gòn không thuộc về ta nữa
nếu hỏi ta tại vì sau chống cộng?
ta không quen giải thích kiểu lòng dòng
đơn giản ta từng là lính cộng-hoà
có số quân Thẳng -Tiến khoá của ta
nhưng ta rời nó quay về trường trại
ta cũng bất chấp tội hay không tội
xã hội chủ nghĩa, ta vốn không ưa
đời kiếp nầy hay mai sau cũng thế
chịu đựng mười năm quả là không dễ
nhưng ta, ta có một hướng đi riêng
buồn thì ta viết với cái tình riêng
chứ những thứ khác nói chi thêm… mệt

nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa hè 1987






Giai cấp trong tù


trước khi ngủ ta thường hay nghĩ ngợi
nghĩ lung tung chẳng có chút mối mang
nhiều khi nghĩ đến chuyện rất hoang đàng
cho có cái gọi nằm đêm suy nghĩ
chợt một buổi ta lần tay ngồi tính
thử xem mình đang ở tuổi mấy mươi
hoá ra ta chưa tới vạch ba mươi
mà kỳ cục ta già đi quá cỡ
theo cái tên ta, thằng không nịnh bợ
không thích khoe và học làm sang
ta là thằng sinh ra đã nghèo nàn
chín năm đi tù thăm nuôi hai lượt
ta là thằng ghét những ai lừa lọc
không khoái chơi chung tay có vẻ giàu
bởi thế trong tù hay ngó thấp cao
ta bị đá lăn từ khi vô trại

trong đám đông nầy đâu cần phải trái
giặc cũng chơi trò xếp đội ông cha
đội 7 là đội mang tên hoàng gia
chuyên lao động trong nhà hay bóng mát
những người già lưng cong đầu bạc
những tay hom hem bữa bệnh, bữa đau
cộng thêm một số tay to mặt bự
nói chung đó là đội của dân giàu
thiên chúa, tin lành, phật, phe tôn giáo
giặc chia riêng và để ở nhà riêng
phân loại nầy sợ tôn giáo làm phiền
và là nơi giặc lòn tay bòn rút
nhà dòng hay lo cho cha xứ đạo
chùa sợ thầy ốm đói nên lo xa
đáng kể nhất là thành phần thứ ba
lính và thêm những thằng luôn chống cộng

xã hội bên ngoài dẫy đầy giai cấp
thứ trên cao đám thống trị dân đen
dân ngu bị trị là lũ nghèo hèn
đâu cũng thế, và trại tù cũng thế
chín năm rồi ta quen nhiều khuôn mặt
biết nhiều tay, từng một thuở tung hoành
suy cho cùng chỉ nhìn qua hình dung
là biết rõ thứ nên chơi hay né
chín năm ở trại tù ta rất trẻ
tuổi chỉ hơn được có mỗi ba thằng
đa số nhìn ta, họ coi rất rẻ
ta dốt, ngu và chính gốc mồ côi

người ta quên ở tù không có nghĩa
chôn một đời vĩnh viễn hết đường ra
nên có khi vì sợ hay lo xa
nhiều người đã bán thanh danh theo giặc
sợ bị cùm, sợ vợ con không gặp
bán anh em, bè bạn, bán luôn mình
thói thường những khuôn mặt ta coi khinh
nhiều hơn so với số người ta kính
ta đói, ta cô đơn mà ta giữ
cho lòng mình thanh thản lúc xuôi tay
ta khát, ta đau nhưng hứa từng ngày
sống cho ra sống, sống không thẹn mặt
và sống còn không lỗi với con tim


nguyễn thanh- khiết
năm thứ 9 một đời tù - 1986






Trăng trong tù


Nếu không có cái hàng giây kẽm
lòng ta vui biết mấy hôm nay
chín tù ta ch
ưa có một ngày 
nằm bên cửa sổ nhìn trăng xuống
trăng đỏ rực một màu máu chảy
trăng chồm lên bìa rừng, lên ngọn núi cao
qua thung lũng phải chăng trăng nghẹn lại
ta cũng nghẹn ngào từ cửa sổ ngó ra
không vói được cao để ôm siết trăng già
rừng đã rớt mùa thu sao trăng ở quá xa
ta cũng cách xa đời từ lâu lắm
xuống đồng bằng trăng chết một màu trăng
ta giống như vì sao lỡ đã băng
tan đi mất không thể chạm vầng trăng lạnh
trăng đi từ từ, trăng rơi trên đất
trên song sắt thấm đầy dấu sương đêm
ta qua chín năm ở nhiều thứ trại giam
và mấy lần xà lim không đếm được
trăng và ta chẳng có gì hẹn ước
nên không chia chung một cảnh trong tù
trăng ở bên ngoài lên xuống cả mùa thu
ta trong rọ kín không cách gì trăn trở
khuya, kệ khuya qua dù trăng dấu mặt
ta chỉ cần nhìn một bóng trăng soi
bởi nơi đây mỗi ngày ta mỗi mòn ra
không chừng mai mốt ta chẳng là ta nữa
chín năm dài ta trong nỗi nhớ
trong vòng vây, trong bóng tối âm u
lỡ hôm nay trăng xuống tới trại tù
coi như đã có duyên từ thiên cổ
chớ vẫy tay chào, trăng khuya quá độ
về đi thôi nơi trăng đến từ đầu
ta ở chỗ nầy cũng đã khá lâu
mai, mốt không biết chừng ta đi mất
trên song sắt này ta khắc tên trên đấy
nếu trăng quay về nhớ ghé thăm ta
tên của ta không giống như trăng già
nó chỉ có một màu rất trắng

nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa thu 1986






Mơ ngày bắc tiến


Bên nầy cửa sông đóng đây cũng được
căng mỏng ra tránh pháo chụp từ xa
nhất quyết tui sẽ đánh tới ngã ba
lấn chút nữa tui sẽ vào lăng giặc
đừng chơi phi pháo mình tui vào đó
đại bàng đưa đây, mấy quả chống tăng
nhất quyết chuyến nầy tui nối hết dây
nổ để trả ơn bảy năm bác tặng

Ta thức dậy mồ hôi còn thấm mặn
trăng tắt ngoài kia, ve hát giữa rừng
dãy xà lim hoàn toàn trong im lặng
ừ một giấc mơ, như ngày ở bưng
tội thân ta thù năm xưa còn nặng
ngủ không yên như vậy đã mấy năm
chuyện ngày trở về có vẻ xa xăm
nhưng tim óc không làm sao quên được

Trở mình lăn, cái cùm như quá cứng
nghiến vào cổ chân làm máu rỉ ra
khát khô cổ khiến ta mờ đôi mắt
ở ngoài kia có lẽ đã canh ba
nghĩ cũng tệ thân bị cùm treo cẳng
ta còn mơ chuyện ra bắc phá thành
ôi! đêm trường, ôi! xà lim vắng tanh
chỉ mình ta đang mơ ngày bắc tiến


nguyễn thanh-khiết
A 20 trong xà lim 1984







Trồng cây trên đồi đứng


Ta cõng cuốc mang phân người đi bón
Trên đồi cao hun hút giữa trưa hè
Những hố sắn trồng nắng nung cháy ngọn
Ta bón cây mà đời không bón ta
Cuốc cào, đá cứng, sỏi đau đời sỏi
Sắn chết từng cây ta chết dần theo
Đồi đứng đụng mây, mây tuôn màu khói
Ta đứng trên đồi, đồi đá cheo leo
Giặc núp sườn đồi lăm lăm nòng súng
Phân rải gió lay bay ngập mùi phân
Tù rạc lâu ngày tay chân bủn rủn
Bò xuống giữa đồi đã mỏi toàn thân
Đường về cổng trại dốc lên, dốc xuống
Băng vực, vượt cầu một gánh oằn vai
Đôi khi tiếc thân, phí đời oan uổng
Ta tự dỗ mình cố sống qua ngày

nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa hè 1984




Ngọn lửa tàn


Ta ngả sốt từ hơn nửa tháng
sốt khô da, sốt nứt hai môi
đêm khuya khát, bật dậy ngồi
nhìn bè bạn mỏi mòn say ngủ
dãy nhà giam đêm buồn ủ rũ
nước tiểu, phân người bốc mùi hôi
nơi ta nằm không đủ chỗ ngồi
lật ngữa, hai vai đè lên bạn
đời đi tù quá nhiều giới hạn
cái chết như con kiến nhỏ nhoi
lao phổi có khi thấy hẳn hoi
khạc một cái máu tươi dính miệng
sốt là thứ lặng lờ im tiếng
mê sảng rồi là coi như xong

Thiếp đi ta còn nghe em gọi
và tiếng con khóc nắm tay cha
có lẽ lần đầu ta nghe tiếng ba
chín năm đi biệt làm sao biết
con bao lớn, em già bao tuổi?
sống ra sao, em ở chỗ nào?
thư giặc cắt không cho ta gởi
ba năm rồi chẳng có một tin
có khi ta tự trách một mình
ngày ở bưng biền đừng về phố
đừng gặp em, đừng làm em khổ
giờ lỡ rồi một chuyến tàu qua
mang chi ta một gánh sơn hà
có làm được gì khi thua trận

Trong mê ta nói lời ân hận
nói thì thào, nói với rừng thiêng
với em còn một nỗi tình riêng
có lẽ đời nầy chưa trả được
với con ta không tròn trách nhiệm
tuổi chưa đầy cha đã ra đi
chín năm, chín năm chẳng ra gì
qua nhiều trại, xà lim, cùm kẹp
mùa hè khô trên bờ mi khép
mùa hè đau như cái chết gần
thôi coi như một đời lận đận
ta chết nơi nầy lòng không nguôi


nguyễn thanh-khiết
A 20 Hè 1986






Áo chùng đen


Khi rớt xuống cực cùng cuộc sống
Bản ngã con người lộ hẳn ra
Lúc đói áo đen vùi một đống
Tù đày sư sãi hoá thành ma
Một miếng cơm thừa đâu đã khiến
Đem áo chùng làm miếng vải lau
Xưa ngài vang vang trong nhà nguyện
Con chiên của chúa phải thương nhau
Chưa xa chân chúa ngài đã chuyển
Hút máu người như lũ ác ôn
Giọt máu con chiên ngày quốc biến
Phải chăng bạo chúa bán linh hồn?
Con chim đau, bầy đàn nhức nhối
Ngài bất cần chỉ muốn vinh thân
Chăn đàn chiên mà ngài sợ đói
Mặc áo dòng lạy lục yêu ma
Hãy trả áo, quay về xưng tội
Cùng nước non đang ngập đao binh
Hãy quên thân nạp mình sám hối
Học thuộc lòng hai chữ nhục, vinh

 
nguyễn thanh-khiết
T 20 tháng 11-1977
( Bài cho bạo chúa áo đen Đinh xuân Hải dòng Tân Sa Châu)





Ba mươi tết trong tù


Hát chi bài ca quốc hận
Tám năm còn gì đợi mong
Tết năm nay buồn bất thần
Nói thì nói sao cứ trông

Nghe súng cắc cù bên núi
Tưởng quân về phá trại giam
Nghe cho đã rồi buồn tủi
Chuyện nhỏ có ai chịu làm

Thành xưa bỏ, giặc về chiếm
Lục lọi dăm khẩu súng quèn
Hứng khởi lên yên mài kiếm
Ba năm biên giới đã quen

Tù túng tám năm ở trại
Nhục vinh thân thế thấp hèn
Có khi nghĩ mình trót dại
Nhìn chi thế giới bon chen

Mai mốt có về dù muộn
Vô chùa gõ trống, đánh chuông
Để thấy đời mình oan uổng
Coi như ngựa đã về chuồng

Gốc đa, bồ tát, miếu chùa
Không biết có còn câu kinh
Lỡ mai gió sương héo úa
Ta còn một chỗ cho mình


nguyễn thanh-khiết
Tết ở A 20 1985





Điểm danh


Qua hết 83 ta về chung một trại
thượng vàng hạ cám còn có thế thôi
bốn quan tổng trưởng một đã đi rồi
dàn đại tá dăm ba ông còn lại
những cựu binh từng cầm lon trung tá
dăm ba que chưa đủ bộ văn phòng
mai bạc thì thôi đếm chục, đếm trăm
nhưng mà tiếc dàn chiến trường còn thiếu

Buồn ngồi nghĩ nếu phải bầu tổng thống
chẳng biết lựa ai trong mớ hổn mang
việc đó để sau ta từ từ bàn
giờ cần tính trước là hàng tổng bộ
Hồ văn Châm làm ơn đừng tính vô
nhục lòn cúi hồi trại E phải kể
ông Tỉnh đã có một thời quá khổ
lớn tuổi rồi để ông ấy nghỉ ngơi
ông Tịnh tư pháp cứng cựa chịu chơi
nhưng tiếc ông không thèm tham chính nữa
chỗ nầy bỏ qua một hồi sẽ tính
dàn tham mưu còn có đại tá Bền
bên Biệt Cách Dù có trung tá Thông
mấy năm tù tội ít nhiều có xuống
nếu không xong thử xem dàn thiếu tá
trẻ, hăng say, không chịu nhục, chịu hàng
ở trong tù tránh mấy kẻ giàu sang
thường ưa nịnh hót và hay làm bậy
vậy thì kiếm hết những tay còn trẻ
coi sơn hà như mạng sống ông cha
hô một tiếng là ầm ầm đứng dậy

Khi đói, khát bị cùm ta nghĩ bậy
để không nghe tiếng tắc lưỡi thạch sùng
tiếng não lòng, tiếng gọi thúc ta đi
như ngày đó khi quân tan, hàng rã
mấy năm ở tù chung ta thấy cả
ít ra còn một tuổi trẻ đáng thương
xem tù đày như ga nhỏ qua đường
nghỉ một lát rồi lên tàu đi tiếp
nhưng mà ông trời ưa chơi oan nghiệt
ưa thử bằng xương, bằng máu, mồ hôi
máu xương đã đổ xuống quá nhiều rồi
mà giặc còn chật nhà trông quá chướng

Hôm nay ta buồn sờ lên thép lạnh
cùm chữ U làm đau rát cổ chân
bảy năm hơn ta còn chút nghĩa ân
với sông núi chưa làm chi coi được
bảy năm hơn ta cầm như biết trước
chuyện quay về thì có, nhưng chắc lâu
chỉ sợ khi tóc đã bạc trắng đầu
sức đã kiệt không còn theo chân ngựa
ôi! đêm nay một vầng trăng quá nửa
lén thăm tù qua khe hở biệt giam
ta còn đây với tháng héo ngày tàn
mà cùm treo cứng vô phương cựa quậy

nguyễn thanh-khiết
Biệt giam ở A 20
1984







Cành mai vỡ vụn


Qua tết là bắt đầu thê thảm
Sau những ngày hò hát quốc ca
Duy Trác nhà nghề đi tiền trạm
Theo sau lần lượt hốt từng nhà
Biệt giam mùa xuân như mở hội
Vừa hết kẻ vào tới người ra
Những cái cùm bắt đầu nóng hổi
Lũ thép quen hơi máu người nhà
Giặc có cách lần dò dấu vết
Ta có chiêu tịnh khẩu như bình
Lẽ dĩ nhiên rốt cùng đoạn kết
Cái thắng về phần kẻ cầm binh
Sau tết ngồi thương cành mai vỡ
Mai vỡ từng cành ta thấy đau
Hôm nào cao giọng cùng hớn hở
Bây giờ tan tác buồn làm sao
Chung một con sông cùng chèo chống
Qua khúc quanh xuồng gãy tay chèo
Nước cuốn bèo trôi nhìn vô vọng
Chiếc lá trên cành cũng buồn theo
Biệt giam chỉ cách vuông sân rộng
Giặc gác ngày đêm trên tháp cao
Nhiều khi cũng muốn giang tay chống
E động khắp vùng gây xôn xao
Những cánh mai vàng chưa phai nhụy
Rụng tan thương dưới đám gió rừng
Buồn quá đỗi thèm làm chốt thí
Đổi lái một lần để qua bưng
Tám năm ta hoá thành nhu nhược
Thấy chết can tâm trố mắt nhìn
Suy cạn nghĩ cùng thôi nhường bước
Cố nén cho qua cơn bực mình

nguyễn thanh-khiết
Sau tết 1982





Giọt nước thần kỳ


ở mãi xà lim mọi người kiệt sức
nằm kề nhau như những xác không hồn
tất cả bây giờ giống tựa chưa chôn
thoi thóp chờ tới khi tim đứng lại
không tính được bây giờ tháng mấy
là ngày nào từ lúc bước vô đây
những dấu gạch dọc, ngang để tính ngày
giờ không còn chỗ gạch thêm cái nữa
lâu lắm không có thằng đi làm việc
tính ngược, tính xuôi thử kế mấy lần
lâu lắm rồi khát từ đầu xuống chân
phải chi có một ngụm ngon biết mấy
ở xà lim thì luôn luôn tính kế
né câu hỏi cung, giữ vẹn an toàn
giữ cho bạn bè, giữ nghĩa trung cang
và tính tới cách đi tìm nước uống
cách đơn giản là hét to báo bệnh
thằng phải ra khai sốt, giả nằm im
cố đi tiểu, rồi căng bụng uống thêm
trở lại đái ra cho thằng khác uống
cách thứ hai xin ra khai chi tiết
kéo dài buổi cung, đi tiểu nhiều lần
trước khi vào uống và đứng dang chân
uống cho đến khi không còn sức uống
Trại Trừng Giới có bề dày lịch sử
có chiều cao của mấy lớp xác tù
có chiều sâu máu chảy những biệt khu
và có cả một bề dầy kinh nghiệm
A 20 nơi tự hào nung thép chảy
cũng là nơi có một Vũ hùng Cương
đã từng uống nước tiểu Nguyễn Tú Cường
trong cuộc chiến dằng dai và bất khuất


nguyễn thanh-khiết
Trại Trừng Giới A 20, 1984






Chết khát


Khi đã cạn cùng không còn sức bật
người tù sờ trên thép nóng và khô
lòn ngang cùm thanh thép cứ trơ trơ
tỳ lên gót chân nhiều ngày mưng mủ
quanh cổ chân nửa thân cùm trong đó
da bong sần sùi, đọng chút máu tươi
mấy tháng xà lim toàn thân rả rượi
nhấc một cánh tay cũng khó vô cùng

Đói thì không kể nhưng còn cái khát
khát tới chết người, khát nứt nẻ môi
khắp cả người không có giọt mồ hôi
dù nắng mùa khô như nung rực lửa
hết nước, là cạn cùng một đời sống
người như căng tròn lỏng bỏng dưới da
cần cổ nóng ran không thể thở ra
miệng há hốc nước miếng khô quánh lại

Hết nước, máu cơ hồ không còn chảy
người nặng nề xương cốt chẳng dính nhau
hết nước, người tù như ở trên cao
cứ lơ lửng và nhịp tim chậm lại
hết nước, mắt mờ mờ không khép kín
cánh mũi phồng lên để lấy hơi vô
tai vo vo như có tiếng mơ hồ
dăm phút nữa con tim sẽ ngừng lại


nguyễn thanh-khiết
A 20 những ngày ở xà lim






Ngày em đến thăm


Bẵng một dạo từ khi rời trại cũ
Năm năm giữa rừng em tới thăm ta
Tội thân em gồng gánh vượt đường xa
Mà Phú Khánh mùa nầy trời mưa lũ

Em nhỏ nhoi vì đâu thêm vai nặng
Có sá gì một căn kiếp đời ta
Ta muốn ôm hôn khi em khóc oà
Cách mấy bước mà như xa vạn dặm

Xưa em ngoan môi hồng luôn tươi thắm
Chỉ mới bao năm tóc đã màu phai
Xót cho em vì ta mà oan trái
Đau lòng ta, em gầy guộc hơn xưa

Ôm con thơ em đã khóc bao mùa
Chờ hết kiếp người xưa chưa quay lại
Em ơi về đi, em đừng trở lại
Nợ gối chăn nầy phải hẹn lần sau

Ta lỡ đã đi trên một chuyến tàu
Qua ga một đỗi rồi đi xa nữa
Bến đổ chưa bao giờ ta chọn lựa
Đi mà đi cho bằng hết hơn thua

Em ơi về đi, em đừng tới nữa
Đau chừng ấy rồi phải để em nguôi
Nghe lời ta, đừng bỏ con mồ côi
Với nó, ta thương mà không dám nhớ


nguyễn thanh-khiết
phân trại B – A 20, 1984







Rừng mía ngọt


Rừng mía kéo từ đồi qua con suối
đi trên cao nhìn như bãi cỏ hoang
mía ba năm gốc đã đến ngày tàn
tàn như đám tù nhiều năm ở trại
mía xác xơ thân bằng ngón chân cái
đường mật vắt kiệt từ lúc đặt hom
tù trồng mía nghe mùi đường đã tởm
răng không còn lấy gì bóc vỏ ăn

Đội dàn ngang cầm rựa cùn chặt mía
lá cắt nát tay, rát, ngứa và đau
dưới chân tù gốc cũ nhọn như dao
xuyên qua lớp dép mòn như lưỡi cạo
mía ngả giống như xác người gục xuống
chồng chéo nhau y hệt bãi chiến trường
ba năm trồng, sau mấy phút dọn đường
rừng mía hoang tàn như sau trận giặc

Vác mía về, đường xa mờ trong nắng
tháng 6 mùa Lào thổi ngọn gió khô
chân bám mặt đường khát khô trong cổ
tay gồng ôm bó mía nặng trên đầu
dốc xuống, dốc lên, gai rừng nhọn hoắt
cạn mồ hôi muối mặn nổi trên lưng
giặc thúc phía sau hò hét không ngừng
tù như một đàn bò ngơ ngác bước

 
nguyễn thanh-khiết
phân trại B –A 20, tháng 6-1984






Mưa lũ tháng 10

Tháng 10 nước lên, miền trung mưa lũ
Ba mươi ngày đói, rét giữa nhà giam
Nghe tin Trà Bương nước đã chảy tràn
Tiếp tế trại như đi xuồng trên biển
Độc đạo vào đây đoạn đường tai biến
Toàn trại tù hứng hết mọi tang thương
Lạnh cắt da quần áo vá trăm đường
Chỉ bằng bao cát, vết khâu đứt đoạn
Mưa miền trung ngắn, dài rơi ngao ngán
Xót đời tù khi nước mất nhà tan
Tháng 10 khắc khe đói rét chưa tàn
Giặc lại cướp dã man đồ tiếp tế
Những chuyến tàu qua La Hai ghé trễ
Trung chuyển bằng xuồng những gói quà con
Thân nhân gởi đi như lẽ sống còn
Mong kịp cứu những thân tù đói rã
Giặc nhẫn tâm bày trò làm phép lạ
Quà sang sông là ném dọc đường đi
Trời sao sinh bác, đảng chẳng ra gì
Trấn lột toàn dân, trại tù cũng tính
Tháng 10 miền trung, đau bầu sữa mẹ
Đàn con vẫy vùng, chết giữa Trường Sơn
Xương trắng năm xưa trả lại căm hờn
Khi cuộc chiến đã phai màu binh lửa


nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa mưa 1983






Bầy chim gãy cánh

















 

Những tiếng súng vang trong chiều rờn rợn
bảy cánh chim đã hút giữa rừng cây
Phú khánh mùa nầy gió thổi mưa bay
tiếng báo động vẫn rền vang vách núi
những cánh chim đầu đàn của quân binh thuở trước
vùng vẫy đi vào huyền sử trại giam
lần đầu tiên giặc thảng thốt, kinh hoàng
từ dựng trại chưa con kiến nào qua lọt
bảy con chim, vượt qua từng giới hạn
một cánh dù làm mũi nhọn chuyến bay
và mưa rơi, mưa trút xuống tơi bời
xoá vết chân của bầy chim đang tìm chỗ đậu

Liên trại bị hành trong cơn cuồng nộ
súng gờm gờm, giặc lùng sục khắp trại giam
bảy cánh chim bay cả đàn như bị bẫy
mặc trời mưa lệnh xét trại tốc hành
giặc không chừa một ngóc ngách, một vết đinh
bới tung toàn trại cố tìm dấu vết
cả đàn như đang buổi cầu kinh
im lặng nguyện cầu cho những cánh chim vừa bay hút
mưa vẫn rơi, đường rừng muôn gai góc
có an toàn cho những cánh thiên di
mưa che không, gió bảo vệ được gì?
Núi trùng trùng, miền trung ma thiêng nước độc
Trường Sơn xưa những ngày tang tóc
hãy rộng vòng tay đón chiến sĩ về nguồn
mẹ Việt-Nam ơi bảy đứa con ngoan
vừa thoát gông cùm trở về bên gối mẹ

Ngày qua đi, ngày nín thở lắng nghe
im lặng mà nghe tóc tang gần lại
ôi Phú Bổn! trên bản đồ chỉ cách một gang tay
trên thực địa đường rừng đi là mấy
tang thương chưa bên bờ suối chảy
súng đạn kẻ vô thần làm gãy sáu cánh bay
con chim cuối một tiền sát quen tay
đã thoát chết khi rời đàn qua biên giới

Tin đau sau cùng đã về tới trại
tất cả nghẹn ngào hét tiếng bi ai
như bị đốn ngả không làm sao vươn dậy
tang thương chưa, nơi nầy không đất sống
bay đi xa tưởng trở lại quê nhà
rồi bây giờ đâu đó giữa rừng xa
nắm xác bỏ lạnh lùng không hương khói
tang thương chưa núi rừng ơi hỡi
hiển linh gì sao giúp giặc bỏ tình xưa
xót xa chưa mẹ Việt-Nam, mẹ Việt-Nam ơi
những con của mẹ với căm thù nầy làm sao trả


nguyễn thanh-khiết
Để tưởng nhớ 7 anh hùng ở A 20
Và cuộc vượt trại ngày…13-11-1980…
Nén nhang cho TQLC trung uý Nguyễn Ngọc Bửu
người anh tôi không quên




Món ăn thời tiền sử


Những lát sắn khô còn nguyên cả vỏ
Mang cái tên có đủ các mùi hương
Khoai mì Ấn Độ ơn đảng ban cho
Cư dân Phú khánh thấy là nôn mửa
Sắn thái lát giữa đồi hoang cỏ cháy
Dính cả phân người, cỏ rác, đất đen
Đổ hết vào nồi ninh suốt một ngày
Cân cả nhựa đem chia ra từng đội
Khi sắn nguội nhựa như keo màu xám
Nhớt và tanh ruồi nhặng khoái bám quanh
Đó là thức ăn đong đo hàng tháng
món chính của tù sau thế kỷ 20
cơm ở đây không phải một chén đầy
chỉ phân nửa và triền miên nước muối
Hoà bình xong, độc lập chưa đủ dầy
Đảng bảo ăn sắn khô mà chuộc tội
Sắn lát là khoai mì không thái nhỏ
Bác dạy cắt lát to mà phát cho tù
Đảng quang vinh cơ hồ như nói nhỏ
Hết tập trung rồi đảng đổi món cho


nguyễn thanh-khiết
A 20 những năm 80-87






Khai trận


Trận địa bắt đầu như cảnh báo
Giặc mở màn trò xé lẻ nhau
Chính trị phạm, tù binh, quân đội
Chung một nhà cho nghi kỵ nhau

Đòn chào đầu, khai đao chuyện cũ
Chụp chảo, biệt giam, đủ thứ trò
Tra tấn tinh thần, cùm, dụ dỗ
Chuyện nhỏ trong tù, cũng hoá to

Mùa mưa đường đứt, không liên lạc
Tù ngóng tin nhà, giặc thản nhiên
Thay cơm giặc phát bo bo đá
Mặc xác tù ăn phải giã, nghiền

Nửa chén bo bo, khoai ba lát
Gánh nặng lên đồi tù ngả nghiêng
Lao phổi lan tràn, qua dịch tả
Chết ở trại nầy, quá tự nhiên

Đồi vĩnh biệt chắn ngang ngoài trại
Từ đỉnh chôn dần xuống cuối chân
Bia mộ lờ mờ hai cây chéo
A 20 cái chết đến thật gần

nguyễn thanh-khiết
ngày đầu ở A 20
1980





Đường về địa ngục






















Những cổ xe xếp dài bên rừng Lá

những cái tên được nhắc lại hai lần
hành trang ta mang, ba năm đủ cả
hận, đau, buồn, lẫn chút bâng khuâng
Lên xe ngó một màu rừng đêm tối
ánh sao trên trời chớp chớp tiễn đưa
ta ở ba năm khi đi cũng bồi hồi
con suối, biệt giam, ngày về đã hứa
Ra quốc lộ xe ngược về phương bắc
ánh mắt thăm dò, bè bạn ngó nhau
chỗ này Nha Trang nhìn qua song sắt
ta thở dài Sài-Gòn tuốt phía sau
Lên đèo Cả sương mù che hướng núi
biển sớm mai mờ mờ phía dưới xa
biển bao la, biển chẳng biết ngậm ngùi
ta đang bị đày đi nơi xứ lạ
~*~ ~*~
Xe đưa tù trở mình qua độc đạo
thiết lộ hoang vu nắng hực xuống đầu
bụi đỏ mù bay, mắt nhìn lơ láo
Trường Sơn trùng trùng đá dựng trên cao
La Hai xác xơ, cửa nhà hoang phế
trưa chang chang cỏ cháy dọc đường tàu
những lỗ châu mai như còn kể lể
chiến địa ngày nào, xương trắng rừng cao
Con sông Trà Bương vắt ngang đường núi
vạch một dấu nghẹn ngào chia trần gian
mùa khô xe lăn trên bầy đá cuội
mưa về chỉ duy nhất chuyến đò ngang
Xuân Phước tận cùng A 20 điểm cuối
vùng rừng thiêng nước độc đã bao đời
một ngày và đêm cổ xe tù đầy bụi
dừng bên đường như một chuyến rong chơi

nguyễn thanh-khiết
ngày đầu tới A 20, 05-1980





Chờ một chuyến đi


Trăm con người bị lùa vào một chỗ
Thay nơi bầy Thiên Nga mới bay đi
Cửa khoá bên trong, rào ngoài gác cổng
Kệ mẹ có đi cũng một lần đi
Nhốn nháo làm gì, nghĩ chi bận bịu
Xưa một Kinh Kha, qua được cứ qua
Ta có phải cư dân của Tề hay Sở
Trên một Việt-Nam đã mấy lần xa
Ba năm chưa thấy người đang thực sống
Chỉ phút buông tay đổi một kiếp tù
Kệ mẹ giữ yên đừng cho tâm động
Mai lỡ không về đỡ phải lu bu
Ngày thua trận xôn xao thì cũng vậy
Người bỏ nước đi thì cũng là đi
Kẻ ở đi tù qua bao nhiêu trại
Giờ mình đi, đi đâu? cũng là đi
Giặc điểm danh rồi thì thôi khỏi nói
Vượt rào, cướp trại, chửi đảng, bẻ còng
Lũ chúng ta, nói cùng, chung một giống
Mấy đời chống cộng chẳng lẽ nói không?
Thôi cứ hành trang gọn gàng sạch sẽ
Chắc chắn chuyến nầy sẽ phải đi xa
Từ nam ra bắc trừ phi đất nẻ
Còn giặc ngày nào, kiếp nạn chưa qua

nguyễn thanh-khiết
ngày ở nhà 7 Z30D – 1980