22.6.11

bầy mộ cũ


bầy mộ cũ nằm bên đầu dốc
góc rừng mùa hạ xác xơ cây
ta bao lần qua trên lối này
gió lay lay - hay hồn ghé lại

này mộ cũ, tên người không có
chết lâu chưa mà cỏ ngang đầu ?
sau lưng người là những hố sâu
mai mốt xương cốt còn đâu nữa

người chết giữa Trường Sơn gió hú
chết trong tù khi lỡ buông gươm
chết bao năm hồn còn vất vưởng
nợ nước trả rồi tiếc mà chi ?

ta ở trại này năm thứ sáu
thấy chết nhiều hơn kẻ sống còn
muốn thăm bè bạn đã chết non
đành lòng đợi - một mai trở lại

người ngủ yên giữa rừng gió hát
ta còn đây đau kiếp đi đày
người thản nhiên về với cỏ cây
thôi đừng nhớ những gì phải nhớ

một tiếng chào nhau không thể có
chia tay thôi ! rừng đã xuống chiều
qua đây ta buồn biết bao nhiêu
thương bầy mộ - bạn bè nằm đó

nguyễn thanh-khiết

Viết cho bè bạn đã nằm lại trên đồi Vĩnh Biệt
trong Thung Lũng Tử Thần





18.6.11

Ngày nắng trên đồi


nắng hạ Lào đốt khô đồi trọc
mồ hôi tù thấm mặn Trường Sơn
đồi trùng trùng tù leo lên dốc
theo tuổi tù dốc dựng cao hơn

giặc dí súng lùa về láng trại
nắm rau hoang ngắt vội bên đường
cây cỏ tội thân tù mọc đại
trên đất thù cháy ngọn mà thương

nắng như lửa bừng bừng giữa núi
hơi mờ mờ như khói như mây
bụi như hốt phủ đầy mặt mũi
sông núi hay chăng phận đi đày

suối cạn vạch rêu thò tay múc
ngụm nước nặng mùi tanh của rong
cắn răng nuốt cho tròn vinh nhục
nợ sơn hà bất kể đục trong

lưng trần trụi còng theo quang gánh
xuống lũng sâu trèo ngược lên đồi
gót chân nứt da bong từng mảnh
giang san này đã mất đành thôi

nắng vẫn cháy trên thân tù tội
núi vẫn khô theo kiếp đi đày
trong gió đưa như lời sám hối
hận một ngày lầm lỡ xuôi tay

nguyễn thanh-khiết
Z30 D - A20 với những ngày trong trại giặc

12.6.11

Mửa máu


hắn chết khi máu trào ra lần cuối
trên bục nằm loang lỗ lạnh buốt xương
quần áo rách bươm phơi dãy xương sườn
manh chiếu nát tặng lại người sống sót

hắn chết giữa mùa đông, trời Phú Khánh
Trường Sơn thở dài rước một sinh linh
hai năm mửa máu hắn cố dọn mình
khi nằm xuống cỏ rừng che nấm mộ

Trại Trừng Giới - ba ngàn người cùng khổ
đang gối đầu với cái chết vì lao
thức dậy, chưa đứng lên máu đã trào
lũ vi khuẩn rủ nhau bay vào gió

thằng úp mặt vào tường ho ra máu
thằng nín hơi cố giữ mạng qua ngày
nhà giam kín bưng nằm xuống sát vai
thần chết đêm đêm về khoe lưỡi hái

Trại Trừng Giới và những cơn sợ hãi
trên thân tù - từng da ngựa bọc thây
cuộc chiến cuối – trời ơi ! đau như vậy
Trường Sơn đành lòng đứng sửng không hay

hắn chết, úp mặt nằm trên vũng máu
giọt máu ngày nào từng bón núi sông
hắn chết không phải vào giữa đêm đông
mà vĩnh biệt khi gà rừng gáy sáng

Trại Trừng Giới những oan hồn lảng vảng
hát nghêu ngao bài hát ứa máu tươi
dãy biệt giam xiềng xích hả hê cười
đám chúa ngục khúc khắc ho từng tiếng


nguyễn thanh-khiết

(viết cho những A20 mửa máu quay về và vĩnh biệt những A20 đã mửa máu và ra đi)
1983-1986


11.6.11

Cho người nằm lại đây


Đá sỏi La Hai núi đồi Xuân Phước
trại giặc này ta ở đó sáu năm
đời tù mà ngày về không biết trước
bạn bè ơi ! bao kẻ chết âm thầm

những cái xác còn trừng con mắt ngó
ốm tong teo chôn vội giữa Trường Sơn
những cái xác trụi trần phơi sương gió
chết bơ vơ trong tủi nhục, căm hờn

A 20 ơi ! gông cùm khua rổn rảng
trong mưa mù ai thắp đuốc chôn nhau
nắm đất đào sơ thây vùi thật cạn
kiếp nạn này làm tắt vạn vì sao

mười năm bệnh tật theo chân rượt đuổi
mười năm tù vinh nhục trở bàn tay
người chết cố nhìn thêm giây phút cuối
Trường Sơn như vầy xác gởi cho ai ?

ta ở sáu năm đếm từng bè bạn
nhớ mãi trong lòng những cái chết đau
Thung Lũng Tử Thần trùng trùng khổ hạn
thương cho ai lỡ bỏ súng hôm nào

 nguyễn thanh-khiết
(những ngày ở A20)




28.5.11

cho những người vợ tù


người gồng gánh vượt đường xa qua núi
trại tù nào giặc cũng dựa Trường Sơn
tội tiểu thư thân trót đành phận rủi
nếm mật nằm gai khi mất giang sơn

thương chi chồng, xót chi thân mất nước?
nhịn mặc, nhịn ăn lặn lội đường rừng
cái chết trong tù bao giờ biết trước
gặp một lần đánh đổi mấy gian truân

ôi! người vợ đã theo chồng chinh chiến
đã nuôi chồng qua biết mấy trại giam
tiểu thư xưa già theo ngày quốc biến
chân đạp gai rừng lưng cõng nước Nam

người vợ của tù binh trên đất giặc
vẫn hiên ngang qua những cánh rừng già
mười năm, theo chồng - đau thương dằng dặt
món nợ này sao có thể bỏ qua?

con dại mười năm đè lên vai nhỏ
theo dấu chân tù chẳng có ngày ra
cửa nát nhà tan giặc thù vẫn đó
ôi ! người vợ tù khi cuộc chiến qua

 nguyễn thanh-khiết
A20
Bài thơ riêng kính tặng chị Như-Lan (A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)





thói người trong ngục



thằng đội trưởng lăng xăng trà với thuốc
lũ cai tù ghìm súng dưới lều tranh
bốn mươi bộ xương rã rời tay cuốc
mồ hôi đầm đìa thấm cả đá xanh

đời tù tội xếp hàng theo thứ bậc
phụ tá cai tù, mỗi lúc mỗi đông
đám uống máu tù mỗi năm mỗi chật
những kẻ mồ côi chỉ có tay không

thằng phản bội có trăm chiêu ngàn kế
vinh thân phì da trên xác anh em
lũ giàu sang đã một thời chễm chệ
vào tù huênh hoang, cái thói sang hèn

thương mấy đứa trụi trần thân với thế
một đời tù nhìn thấy hết bon chen
tiếc một giang san quá nhiều thứ tệ
xót một màu cờ trót giữ bao phen

trong lớp lớp tù lu bu chật chội
mỗi ngày ta gậm hết những đắng cay
thứ cay đắng muôn đời không hiểu nỗi
ta là ai, mà đến thế gian này

 nguyễn thanh-khiết
thời tù ngục ở A20





27.5.11

Mưa trên trại thù



như những bóng ma chập chờn bên núi
đám tù lết về trại dưới chiều mưa
Trường Sơn trùng trùng, ngày qua ngắn ngủi
đời tù lụn dần theo sáng theo trưa

đêm mưa rớt từng cơn ngoài lán trại
chỗ nằm đau trên bệ đá lạnh căm
những giấc mơ của một thời quan ải
nuôi từng ngày với nỗi đợi âm thầm

gió núi thấm trên thân tù rách rưới
lát khoai khô không bẻ gãy hận xưa
tù nghiến răng trong từng mỗi nụ cười
mười năm oằn oại mối thù chưa rửa

mùa mưa xuống từng ngày trên trại giặc
mưa rớt buồn, mưa rớt giữa Trường Sơn
tù lắng nghe sấm gầm trong khuya khoắc
cái nhớ thành xưa ruột thắt từng cơn

mưa dỗ tù hiên ngang đi vào mộng
áo giang hồ mưa lấm, tiếc mà đau
tù nhắm mắt rơi vào muôn tưởng vọng
mùa mưa xuống trại thù - không qua mau

 nguyễn thanh-khiết
A20 mùa mưa ở Trường Sơn