12.3.10
Trăng trong tù
Nếu không có cái hàng giây kẽm
lòng ta vui biết mấy hôm nay
chín tù ta chưa có một ngày
nằm bên cửa sổ nhìn trăng xuống
trăng đỏ rực một màu máu chảy
trăng chồm lên bìa rừng, lên ngọn núi cao
qua thung lũng phải chăng trăng nghẹn lại
ta cũng nghẹn ngào từ cửa sổ ngó ra
không vói được cao để ôm siết trăng già
rừng đã rớt mùa thu sao trăng ở quá xa
ta cũng cách xa đời từ lâu lắm
xuống đồng bằng trăng chết một màu trăng
ta giống như vì sao lỡ đã băng
tan đi mất không thể chạm vầng trăng lạnh
trăng đi từ từ, trăng rơi trên đất
trên song sắt thấm đầy dấu sương đêm
ta qua chín năm ở nhiều thứ trại giam
và mấy lần xà lim không đếm được
trăng và ta chẳng có gì hẹn ước
nên không chia chung một cảnh trong tù
trăng ở bên ngoài lên xuống cả mùa thu
ta trong rọ kín không cách gì trăn trở
khuya, kệ khuya qua dù trăng dấu mặt
ta chỉ cần nhìn một bóng trăng soi
bởi nơi đây mỗi ngày ta mỗi mòn ra
không chừng mai mốt ta chẳng là ta nữa
chín năm dài ta trong nỗi nhớ
trong vòng vây, trong bóng tối âm u
lỡ hôm nay trăng xuống tới trại tù
coi như đã có duyên từ thiên cổ
chớ vẫy tay chào, trăng khuya quá độ
về đi thôi nơi trăng đến từ đầu
ta ở chỗ nầy cũng đã khá lâu
mai, mốt không biết chừng ta đi mất
trên song sắt này ta khắc tên trên đấy
nếu trăng quay về nhớ ghé thăm ta
tên của ta không giống như trăng già
nó chỉ có một màu rất trắng
nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa thu 1986
Mơ ngày bắc tiến
Bên nầy cửa sông đóng đây cũng được
căng mỏng ra tránh pháo chụp từ xa
nhất quyết tui sẽ đánh tới ngã ba
lấn chút nữa tui sẽ vào lăng giặc
đừng chơi phi pháo mình tui vào đó
đại bàng đưa đây, mấy quả chống tăng
nhất quyết chuyến nầy tui nối hết dây
nổ để trả ơn bảy năm bác tặng
Ta thức dậy mồ hôi còn thấm mặn
trăng tắt ngoài kia, ve hát giữa rừng
dãy xà lim hoàn toàn trong im lặng
ừ một giấc mơ, như ngày ở bưng
tội thân ta thù năm xưa còn nặng
ngủ không yên như vậy đã mấy năm
chuyện ngày trở về có vẻ xa xăm
nhưng tim óc không làm sao quên được
Trở mình lăn, cái cùm như quá cứng
nghiến vào cổ chân làm máu rỉ ra
khát khô cổ khiến ta mờ đôi mắt
ở ngoài kia có lẽ đã canh ba
nghĩ cũng tệ thân bị cùm treo cẳng
ta còn mơ chuyện ra bắc phá thành
ôi! đêm trường, ôi! xà lim vắng tanh
chỉ mình ta đang mơ ngày bắc tiến
nguyễn thanh-khiết
A 20 trong xà lim 1984
Trồng cây trên đồi đứng
Ta cõng cuốc mang phân người đi bón
Trên đồi cao hun hút giữa trưa hè
Những hố sắn trồng nắng nung cháy ngọn
Ta bón cây mà đời không bón ta
Cuốc cào, đá cứng, sỏi đau đời sỏi
Sắn chết từng cây ta chết dần theo
Đồi đứng đụng mây, mây tuôn màu khói
Ta đứng trên đồi, đồi đá cheo leo
Giặc núp sườn đồi lăm lăm nòng súng
Phân rải gió lay bay ngập mùi phân
Tù rạc lâu ngày tay chân bủn rủn
Bò xuống giữa đồi đã mỏi toàn thân
Đường về cổng trại dốc lên, dốc xuống
Băng vực, vượt cầu một gánh oằn vai
Đôi khi tiếc thân, phí đời oan uổng
Ta tự dỗ mình cố sống qua ngày
nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa hè 1984Ngọn lửa tàn
Ta ngả sốt từ hơn nửa tháng
sốt khô da, sốt nứt hai môi
đêm khuya khát, bật dậy ngồi
nhìn bè bạn mỏi mòn say ngủ
dãy nhà giam đêm buồn ủ rũ
nước tiểu, phân người bốc mùi hôi
nơi ta nằm không đủ chỗ ngồi
lật ngữa, hai vai đè lên bạn
đời đi tù quá nhiều giới hạn
cái chết như con kiến nhỏ nhoi
lao phổi có khi thấy hẳn hoi
khạc một cái máu tươi dính miệng
sốt là thứ lặng lờ im tiếng
mê sảng rồi là coi như xong
Thiếp đi ta còn nghe em gọi
và tiếng con khóc nắm tay cha
có lẽ lần đầu ta nghe tiếng ba
chín năm đi biệt làm sao biết
con bao lớn, em già bao tuổi?
sống ra sao, em ở chỗ nào?
thư giặc cắt không cho ta gởi
ba năm rồi chẳng có một tin
có khi ta tự trách một mình
ngày ở bưng biền đừng về phố
đừng gặp em, đừng làm em khổ
giờ lỡ rồi một chuyến tàu qua
mang chi ta một gánh sơn hà
có làm được gì khi thua trận
Trong mê ta nói lời ân hận
nói thì thào, nói với rừng thiêng
với em còn một nỗi tình riêng
có lẽ đời nầy chưa trả được
với con ta không tròn trách nhiệm
tuổi chưa đầy cha đã ra đi
chín năm, chín năm chẳng ra gì
qua nhiều trại, xà lim, cùm kẹp
mùa hè khô trên bờ mi khép
mùa hè đau như cái chết gần
thôi coi như một đời lận đận
ta chết nơi nầy lòng không nguôi
nguyễn thanh-khiết
A 20 Hè 1986
Áo chùng đen
Khi rớt xuống cực cùng cuộc sống
Bản ngã con người lộ hẳn ra
Lúc đói áo đen vùi một đống
Tù đày sư sãi hoá thành ma
Một miếng cơm thừa đâu đã khiến
Đem áo chùng làm miếng vải lau
Xưa ngài vang vang trong nhà nguyện
Con chiên của chúa phải thương nhau
Chưa xa chân chúa ngài đã chuyển
Hút máu người như lũ ác ôn
Giọt máu con chiên ngày quốc biến
Phải chăng bạo chúa bán linh hồn?
Con chim đau, bầy đàn nhức nhối
Ngài bất cần chỉ muốn vinh thân
Chăn đàn chiên mà ngài sợ đói
Mặc áo dòng lạy lục yêu ma
Hãy trả áo, quay về xưng tội
Cùng nước non đang ngập đao binh
Hãy quên thân nạp mình sám hối
Học thuộc lòng hai chữ nhục, vinh
nguyễn thanh-khiết
T 20 tháng 11-1977
( Bài cho bạo chúa áo đen Đinh xuân Hải dòng Tân Sa Châu)
Ba mươi tết trong tù
Hát chi bài ca quốc hận
Tám năm còn gì đợi mong
Tết năm nay buồn bất thần
Nói thì nói sao cứ trông
Nghe súng cắc cù bên núi
Tưởng quân về phá trại giam
Nghe cho đã rồi buồn tủi
Chuyện nhỏ có ai chịu làm
Thành xưa bỏ, giặc về chiếm
Lục lọi dăm khẩu súng quèn
Hứng khởi lên yên mài kiếm
Ba năm biên giới đã quen
Tù túng tám năm ở trại
Nhục vinh thân thế thấp hèn
Có khi nghĩ mình trót dại
Nhìn chi thế giới bon chen
Mai mốt có về dù muộn
Vô chùa gõ trống, đánh chuông
Để thấy đời mình oan uổng
Coi như ngựa đã về chuồng
Gốc đa, bồ tát, miếu chùa
Không biết có còn câu kinh
Lỡ mai gió sương héo úa
Ta còn một chỗ cho mình
nguyễn thanh-khiết
Tết ở A 20 1985
Điểm danh
Qua hết 83 ta về chung một trại
thượng vàng hạ cám còn có thế thôi
bốn quan tổng trưởng một đã đi rồi
dàn đại tá dăm ba ông còn lại
những cựu binh từng cầm lon trung tá
dăm ba que chưa đủ bộ văn phòng
mai bạc thì thôi đếm chục, đếm trăm
nhưng mà tiếc dàn chiến trường còn thiếu
Buồn ngồi nghĩ nếu phải bầu tổng thống
chẳng biết lựa ai trong mớ hổn mang
việc đó để sau ta từ từ bàn
giờ cần tính trước là hàng tổng bộ
Hồ văn Châm làm ơn đừng tính vô
nhục lòn cúi hồi trại E phải kể
ông Tỉnh đã có một thời quá khổ
lớn tuổi rồi để ông ấy nghỉ ngơi
ông Tịnh tư pháp cứng cựa chịu chơi
nhưng tiếc ông không thèm tham chính nữa
chỗ nầy bỏ qua một hồi sẽ tính
dàn tham mưu còn có đại tá Bền
bên Biệt Cách Dù có trung tá Thông
mấy năm tù tội ít nhiều có xuống
nếu không xong thử xem dàn thiếu tá
trẻ, hăng say, không chịu nhục, chịu hàng
ở trong tù tránh mấy kẻ giàu sang
thường ưa nịnh hót và hay làm bậy
vậy thì kiếm hết những tay còn trẻ
coi sơn hà như mạng sống ông cha
hô một tiếng là ầm ầm đứng dậy
Khi đói, khát bị cùm ta nghĩ bậy
để không nghe tiếng tắc lưỡi thạch sùng
tiếng não lòng, tiếng gọi thúc ta đi
như ngày đó khi quân tan, hàng rã
mấy năm ở tù chung ta thấy cả
ít ra còn một tuổi trẻ đáng thương
xem tù đày như ga nhỏ qua đường
nghỉ một lát rồi lên tàu đi tiếp
nhưng mà ông trời ưa chơi oan nghiệt
ưa thử bằng xương, bằng máu, mồ hôi
máu xương đã đổ xuống quá nhiều rồi
mà giặc còn chật nhà trông quá chướng
Hôm nay ta buồn sờ lên thép lạnh
cùm chữ U làm đau rát cổ chân
bảy năm hơn ta còn chút nghĩa ân
với sông núi chưa làm chi coi được
bảy năm hơn ta cầm như biết trước
chuyện quay về thì có, nhưng chắc lâu
chỉ sợ khi tóc đã bạc trắng đầu
sức đã kiệt không còn theo chân ngựa
ôi! đêm nay một vầng trăng quá nửa
lén thăm tù qua khe hở biệt giam
ta còn đây với tháng héo ngày tàn
mà cùm treo cứng vô phương cựa quậy
nguyễn thanh-khiết
Biệt giam ở A 20
1984
Cành mai vỡ vụn
Qua tết là bắt đầu thê thảm
Sau những ngày hò hát quốc ca
Duy Trác nhà nghề đi tiền trạm
Theo sau lần lượt hốt từng nhà
Biệt giam mùa xuân như mở hội
Vừa hết kẻ vào tới người ra
Những cái cùm bắt đầu nóng hổi
Lũ thép quen hơi máu người nhà
Giặc có cách lần dò dấu vết
Ta có chiêu tịnh khẩu như bình
Lẽ dĩ nhiên rốt cùng đoạn kết
Cái thắng về phần kẻ cầm binh
Sau tết ngồi thương cành mai vỡ
Mai vỡ từng cành ta thấy đau
Hôm nào cao giọng cùng hớn hở
Bây giờ tan tác buồn làm sao
Chung một con sông cùng chèo chống
Qua khúc quanh xuồng gãy tay chèo
Nước cuốn bèo trôi nhìn vô vọng
Chiếc lá trên cành cũng buồn theo
Biệt giam chỉ cách vuông sân rộng
Giặc gác ngày đêm trên tháp cao
Nhiều khi cũng muốn giang tay chống
E động khắp vùng gây xôn xao
Những cánh mai vàng chưa phai nhụy
Rụng tan thương dưới đám gió rừng
Buồn quá đỗi thèm làm chốt thí
Đổi lái một lần để qua bưng
Tám năm ta hoá thành nhu nhược
Thấy chết can tâm trố mắt nhìn
Suy cạn nghĩ cùng thôi nhường bước
Cố nén cho qua cơn bực mình
nguyễn thanh-khiết
Sau tết 1982
Giọt nước thần kỳ
ở mãi xà lim mọi người kiệt sức
nằm kề nhau như những xác không hồn
tất cả bây giờ giống tựa chưa chôn
thoi thóp chờ tới khi tim đứng lại
không tính được bây giờ tháng mấy
là ngày nào từ lúc bước vô đây
những dấu gạch dọc, ngang để tính ngày
giờ không còn chỗ gạch thêm cái nữa
lâu lắm không có thằng đi làm việc
tính ngược, tính xuôi thử kế mấy lần
lâu lắm rồi khát từ đầu xuống chân
phải chi có một ngụm ngon biết mấy
ở xà lim thì luôn luôn tính kế
né câu hỏi cung, giữ vẹn an toàn
giữ cho bạn bè, giữ nghĩa trung cang
và tính tới cách đi tìm nước uống
cách đơn giản là hét to báo bệnh
thằng phải ra khai sốt, giả nằm im
cố đi tiểu, rồi căng bụng uống thêm
trở lại đái ra cho thằng khác uống
cách thứ hai xin ra khai chi tiết
kéo dài buổi cung, đi tiểu nhiều lần
trước khi vào uống và đứng dang chân
uống cho đến khi không còn sức uống
Trại Trừng Giới có bề dày lịch sử
có chiều cao của mấy lớp xác tù
có chiều sâu máu chảy những biệt khu
và có cả một bề dầy kinh nghiệm
A 20 nơi tự hào nung thép chảy
cũng là nơi có một Vũ hùng Cương
đã từng uống nước tiểu Nguyễn Tú Cường
trong cuộc chiến dằng dai và bất khuất
nguyễn thanh-khiết
Trại Trừng Giới A 20, 1984
Chết khát
Khi đã cạn cùng không còn sức bật
người tù sờ trên thép nóng và khô
lòn ngang cùm thanh thép cứ trơ trơ
tỳ lên gót chân nhiều ngày mưng mủ
quanh cổ chân nửa thân cùm trong đó
da bong sần sùi, đọng chút máu tươi
mấy tháng xà lim toàn thân rả rượi
nhấc một cánh tay cũng khó vô cùng
Đói thì không kể nhưng còn cái khát
khát tới chết người, khát nứt nẻ môi
khắp cả người không có giọt mồ hôi
dù nắng mùa khô như nung rực lửa
hết nước, là cạn cùng một đời sống
người như căng tròn lỏng bỏng dưới da
cần cổ nóng ran không thể thở ra
miệng há hốc nước miếng khô quánh lại
Hết nước, máu cơ hồ không còn chảy
người nặng nề xương cốt chẳng dính nhau
hết nước, người tù như ở trên cao
cứ lơ lửng và nhịp tim chậm lại
hết nước, mắt mờ mờ không khép kín
cánh mũi phồng lên để lấy hơi vô
tai vo vo như có tiếng mơ hồ
dăm phút nữa con tim sẽ ngừng lại
nguyễn thanh-khiết
A 20 những ngày ở xà lim
Ngày em đến thăm
Bẵng một dạo từ khi rời trại cũ
Năm năm giữa rừng em tới thăm ta
Tội thân em gồng gánh vượt đường xa
Mà Phú Khánh mùa nầy trời mưa lũ
Em nhỏ nhoi vì đâu thêm vai nặng
Có sá gì một căn kiếp đời ta
Ta muốn ôm hôn khi em khóc oà
Cách mấy bước mà như xa vạn dặm
Xưa em ngoan môi hồng luôn tươi thắm
Chỉ mới bao năm tóc đã màu phai
Xót cho em vì ta mà oan trái
Đau lòng ta, em gầy guộc hơn xưa
Ôm con thơ em đã khóc bao mùa
Chờ hết kiếp người xưa chưa quay lại
Em ơi về đi, em đừng trở lại
Nợ gối chăn nầy phải hẹn lần sau
Ta lỡ đã đi trên một chuyến tàu
Qua ga một đỗi rồi đi xa nữa
Bến đổ chưa bao giờ ta chọn lựa
Đi mà đi cho bằng hết hơn thua
Em ơi về đi, em đừng tới nữa
Đau chừng ấy rồi phải để em nguôi
Nghe lời ta, đừng bỏ con mồ côi
Với nó, ta thương mà không dám nhớ
nguyễn thanh-khiết
phân trại B – A 20, 1984
Rừng mía ngọt
Rừng mía kéo từ đồi qua con suối
đi trên cao nhìn như bãi cỏ hoang
mía ba năm gốc đã đến ngày tàn
tàn như đám tù nhiều năm ở trại
mía xác xơ thân bằng ngón chân cái
đường mật vắt kiệt từ lúc đặt hom
tù trồng mía nghe mùi đường đã tởm
răng không còn lấy gì bóc vỏ ăn
Đội dàn ngang cầm rựa cùn chặt mía
lá cắt nát tay, rát, ngứa và đau
dưới chân tù gốc cũ nhọn như dao
xuyên qua lớp dép mòn như lưỡi cạo
mía ngả giống như xác người gục xuống
chồng chéo nhau y hệt bãi chiến trường
ba năm trồng, sau mấy phút dọn đường
rừng mía hoang tàn như sau trận giặc
Vác mía về, đường xa mờ trong nắng
tháng 6 mùa Lào thổi ngọn gió khô
chân bám mặt đường khát khô trong cổ
tay gồng ôm bó mía nặng trên đầu
dốc xuống, dốc lên, gai rừng nhọn hoắt
cạn mồ hôi muối mặn nổi trên lưng
giặc thúc phía sau hò hét không ngừng
tù như một đàn bò ngơ ngác bước
nguyễn thanh-khiết
phân trại B –A 20, tháng 6-1984
Mưa lũ tháng 10
Tháng 10 nước lên, miền trung mưa lũ
Ba mươi ngày đói, rét giữa nhà giam
Nghe tin Trà Bương nước đã chảy tràn
Tiếp tế trại như đi xuồng trên biển
Độc đạo vào đây đoạn đường tai biến
Toàn trại tù hứng hết mọi tang thương
Lạnh cắt da quần áo vá trăm đường
Chỉ bằng bao cát, vết khâu đứt đoạn
Mưa miền trung ngắn, dài rơi ngao ngán
Xót đời tù khi nước mất nhà tan
Tháng 10 khắc khe đói rét chưa tàn
Giặc lại cướp dã man đồ tiếp tế
Những chuyến tàu qua La Hai ghé trễ
Trung chuyển bằng xuồng những gói quà con
Thân nhân gởi đi như lẽ sống còn
Mong kịp cứu những thân tù đói rã
Giặc nhẫn tâm bày trò làm phép lạ
Quà sang sông là ném dọc đường đi
Trời sao sinh bác, đảng chẳng ra gì
Trấn lột toàn dân, trại tù cũng tính
Tháng 10 miền trung, đau bầu sữa mẹ
Đàn con vẫy vùng, chết giữa Trường Sơn
Xương trắng năm xưa trả lại căm hờn
Khi cuộc chiến đã phai màu binh lửa
nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa mưa 1983
Ba mươi ngày đói, rét giữa nhà giam
Nghe tin Trà Bương nước đã chảy tràn
Tiếp tế trại như đi xuồng trên biển
Độc đạo vào đây đoạn đường tai biến
Toàn trại tù hứng hết mọi tang thương
Lạnh cắt da quần áo vá trăm đường
Chỉ bằng bao cát, vết khâu đứt đoạn
Mưa miền trung ngắn, dài rơi ngao ngán
Xót đời tù khi nước mất nhà tan
Tháng 10 khắc khe đói rét chưa tàn
Giặc lại cướp dã man đồ tiếp tế
Những chuyến tàu qua La Hai ghé trễ
Trung chuyển bằng xuồng những gói quà con
Thân nhân gởi đi như lẽ sống còn
Mong kịp cứu những thân tù đói rã
Giặc nhẫn tâm bày trò làm phép lạ
Quà sang sông là ném dọc đường đi
Trời sao sinh bác, đảng chẳng ra gì
Trấn lột toàn dân, trại tù cũng tính
Tháng 10 miền trung, đau bầu sữa mẹ
Đàn con vẫy vùng, chết giữa Trường Sơn
Xương trắng năm xưa trả lại căm hờn
Khi cuộc chiến đã phai màu binh lửa
nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa mưa 1983
Bầy chim gãy cánh
Những tiếng súng vang trong chiều rờn rợn
bảy cánh chim đã hút giữa rừng cây
Phú khánh mùa nầy gió thổi mưa bay
tiếng báo động vẫn rền vang vách núi
những cánh chim đầu đàn của quân binh thuở trước
vùng vẫy đi vào huyền sử trại giam
lần đầu tiên giặc thảng thốt, kinh hoàng
từ dựng trại chưa con kiến nào qua lọt
bảy con chim, vượt qua từng giới hạn
một cánh dù làm mũi nhọn chuyến bay
và mưa rơi, mưa trút xuống tơi bời
xoá vết chân của bầy chim đang tìm chỗ đậu
Liên trại bị hành trong cơn cuồng nộ
súng gờm gờm, giặc lùng sục khắp trại giam
bảy cánh chim bay cả đàn như bị bẫy
mặc trời mưa lệnh xét trại tốc hành
giặc không chừa một ngóc ngách, một vết đinh
bới tung toàn trại cố tìm dấu vết
cả đàn như đang buổi cầu kinh
im lặng nguyện cầu cho những cánh chim vừa bay hút
mưa vẫn rơi, đường rừng muôn gai góc
có an toàn cho những cánh thiên di
mưa che không, gió bảo vệ được gì?
Núi trùng trùng, miền trung ma thiêng nước độc
Trường Sơn xưa những ngày tang tóc
hãy rộng vòng tay đón chiến sĩ về nguồn
mẹ Việt-Nam ơi bảy đứa con ngoan
vừa thoát gông cùm trở về bên gối mẹ
Ngày qua đi, ngày nín thở lắng nghe
im lặng mà nghe tóc tang gần lại
ôi Phú Bổn! trên bản đồ chỉ cách một gang tay
trên thực địa đường rừng đi là mấy
tang thương chưa bên bờ suối chảy
súng đạn kẻ vô thần làm gãy sáu cánh bay
con chim cuối một tiền sát quen tay
đã thoát chết khi rời đàn qua biên giới
Tin đau sau cùng đã về tới trại
tất cả nghẹn ngào hét tiếng bi ai
như bị đốn ngả không làm sao vươn dậy
tang thương chưa, nơi nầy không đất sống
bay đi xa tưởng trở lại quê nhà
rồi bây giờ đâu đó giữa rừng xa
nắm xác bỏ lạnh lùng không hương khói
tang thương chưa núi rừng ơi hỡi
hiển linh gì sao giúp giặc bỏ tình xưa
xót xa chưa mẹ Việt-Nam, mẹ Việt-Nam ơi
những con của mẹ với căm thù nầy làm sao trả
nguyễn thanh-khiết
Để tưởng nhớ 7 anh hùng ở A 20
Và cuộc vượt trại ngày…13-11-1980…
Nén nhang cho TQLC trung uý Nguyễn Ngọc Bửu
người anh tôi không quên
Món ăn thời tiền sử
Những lát sắn khô còn nguyên cả vỏ
Mang cái tên có đủ các mùi hương
Khoai mì Ấn Độ ơn đảng ban cho
Cư dân Phú khánh thấy là nôn mửa
Sắn thái lát giữa đồi hoang cỏ cháy
Dính cả phân người, cỏ rác, đất đen
Đổ hết vào nồi ninh suốt một ngày
Cân cả nhựa đem chia ra từng đội
Khi sắn nguội nhựa như keo màu xám
Nhớt và tanh ruồi nhặng khoái bám quanh
Đó là thức ăn đong đo hàng tháng
món chính của tù sau thế kỷ 20
cơm ở đây không phải một chén đầy
chỉ phân nửa và triền miên nước muối
Hoà bình xong, độc lập chưa đủ dầy
Đảng bảo ăn sắn khô mà chuộc tội
Sắn lát là khoai mì không thái nhỏ
Bác dạy cắt lát to mà phát cho tù
Đảng quang vinh cơ hồ như nói nhỏ
Hết tập trung rồi đảng đổi món cho
nguyễn thanh-khiết
A 20 những năm 80-87
Khai trận
Trận địa bắt đầu như cảnh báo
Giặc mở màn trò xé lẻ nhau
Chính trị phạm, tù binh, quân đội
Chung một nhà cho nghi kỵ nhau
Đòn chào đầu, khai đao chuyện cũ
Chụp chảo, biệt giam, đủ thứ trò
Tra tấn tinh thần, cùm, dụ dỗ
Chuyện nhỏ trong tù, cũng hoá to
Mùa mưa đường đứt, không liên lạc
Tù ngóng tin nhà, giặc thản nhiên
Thay cơm giặc phát bo bo đá
Mặc xác tù ăn phải giã, nghiền
Nửa chén bo bo, khoai ba lát
Gánh nặng lên đồi tù ngả nghiêng
Lao phổi lan tràn, qua dịch tả
Chết ở trại nầy, quá tự nhiên
Đồi vĩnh biệt chắn ngang ngoài trại
Từ đỉnh chôn dần xuống cuối chân
Bia mộ lờ mờ hai cây chéo
A 20 cái chết đến thật gần
nguyễn thanh-khiết
ngày đầu ở A 20
1980
Đường về địa ngục
Những cổ xe xếp dài bên rừng Lá
những cái tên được nhắc lại hai lần
hành trang ta mang, ba năm đủ cả
hận, đau, buồn, lẫn chút bâng khuâng
Lên xe ngó một màu rừng đêm tối
ánh sao trên trời chớp chớp tiễn đưa
ta ở ba năm khi đi cũng bồi hồi
con suối, biệt giam, ngày về đã hứa
Ra quốc lộ xe ngược về phương bắc
ánh mắt thăm dò, bè bạn ngó nhau
chỗ này Nha Trang nhìn qua song sắt
ta thở dài Sài-Gòn tuốt phía sau
Lên đèo Cả sương mù che hướng núi
biển sớm mai mờ mờ phía dưới xa
biển bao la, biển chẳng biết ngậm ngùi
ta đang bị đày đi nơi xứ lạ
~*~ ~*~
Xe đưa tù trở mình qua độc đạo
thiết lộ hoang vu nắng hực xuống đầu
bụi đỏ mù bay, mắt nhìn lơ láo
Trường Sơn trùng trùng đá dựng trên cao
La Hai xác xơ, cửa nhà hoang phế
trưa chang chang cỏ cháy dọc đường tàu
những lỗ châu mai như còn kể lể
chiến địa ngày nào, xương trắng rừng cao
Con sông Trà Bương vắt ngang đường núi
vạch một dấu nghẹn ngào chia trần gian
mùa khô xe lăn trên bầy đá cuội
mưa về chỉ duy nhất chuyến đò ngang
Xuân Phước tận cùng A 20 điểm cuối
vùng rừng thiêng nước độc đã bao đời
một ngày và đêm cổ xe tù đầy bụi
dừng bên đường như một chuyến rong chơi
nguyễn thanh-khiết
ngày đầu tới A 20, 05-1980
Chờ một chuyến đi
Trăm con người bị lùa vào một chỗ
Thay nơi bầy Thiên Nga mới bay đi
Cửa khoá bên trong, rào ngoài gác cổng
Kệ mẹ có đi cũng một lần đi
Nhốn nháo làm gì, nghĩ chi bận bịu
Xưa một Kinh Kha, qua được cứ qua
Ta có phải cư dân của Tề hay Sở
Trên một Việt-Nam đã mấy lần xa
Ba năm chưa thấy người đang thực sống
Chỉ phút buông tay đổi một kiếp tù
Kệ mẹ giữ yên đừng cho tâm động
Mai lỡ không về đỡ phải lu bu
Ngày thua trận xôn xao thì cũng vậy
Người bỏ nước đi thì cũng là đi
Kẻ ở đi tù qua bao nhiêu trại
Giờ mình đi, đi đâu? cũng là đi
Giặc điểm danh rồi thì thôi khỏi nói
Vượt rào, cướp trại, chửi đảng, bẻ còng
Lũ chúng ta, nói cùng, chung một giống
Mấy đời chống cộng chẳng lẽ nói không?
Thôi cứ hành trang gọn gàng sạch sẽ
Chắc chắn chuyến nầy sẽ phải đi xa
Từ nam ra bắc trừ phi đất nẻ
Còn giặc ngày nào, kiếp nạn chưa qua
nguyễn thanh-khiết
ngày ở nhà 7 Z30D – 1980
Khi mùa đông trở lại
Ba năm rừng Lá buồn biết mấy
Ta nhớ ba năm chẳng ở nhà
Khi đi con dại chưa tròn tuổi
Ngày có về chắc lắc lơ xa
Mùa đông trở lại theo màu cát
Cát trắng Hàm Tân đã ngả vàng
Ở đây chẳng có chiều gió hát
Thở dài thì biết xuân sắp sang
Ba năm rừng Lá ba năm nhớ
Em tuổi còn xanh tiễn đưa chồng
Tay trắng tảo tần nuôi con mọn
Đợi chờ cho mấy cũng bằng không
Ta biết chợ người đâu đã dễ
Bồng bế con thơ để qua cầu
Có khi buồn lòng ta muốn thế
Đợi chi em, ta chẳng về đâu
Ba năm có lẽ ba năm nữa
Mốc thời gian cứ thế bắt đầu
Khởi đi ta vẫn còn xanh tóc
Chắc gì không về dưới mộ sâu
Rừng Lá phủ đông lòng cũng lạnh
Khi buồn ta nhớ chút vậy thôi
Ta gởi cho con lời trăng trối
Ta chia chút tình em rồi thôi
nguyễn thanh-khiết
Z 30D mùa đông 1981
Đưa người sang trại mới
Một điếu thuốc chia hai, ngày tù tội
Bạn và ta chia một mối thù chung
Nhỡ mai nầy đường đi tù muôn lối
Nhớ một nơi đây mình tới đường cùng
Hãy nếm đắng để thương ngày quốc hận
Phải uống cay mà nhớ buổi đi đày
Đừng tiếc, đừng thương những ngày lận đận
Phải cương cường mò mẫm giữa nhục vinh
Giặc không để mình nhìn cùng một hướng
Giặc không cam bỏ sót chí trả thù
Hãy bình tâm dù biền biệt hai phương
Ta và bạn còn một ngày trở lại
Trống sẽ nổi vang vang hồi xung trận
Kèn thúc quân sẽ dậy khắp trời xa
Mình chia nhau đi gìn giữ sơn hà
Ngăn giặc bắt dân sống thời đồ đá
Ta tiễn bạn bằng mỗi chung nước lạt
Một cái nhìn gởi gấm hết trong ta
Rừng Lá đêm nầy dưới bóng sương tan
Bạn sẽ đi về một nơi rất lạ
Đừng bối rối đất nước giờ khắp cả
Bất cứ nơi nào cũng có trại giam
Bạn đã quen với những cái khôn cùng
Đây hay đó chỉ đổi vùng hoạn nạn
Đừng vẫy tay dù sao trời cũng sáng
Như giang hồ ta bạn cứ chia tay
Hãy quay đi và nhớ những ngày này
Ta với bạn từng sớt chia cùng trại
nguyễn thanh-khiết
Viết cho Ngô Hữu Quyền
Z 30D những ngày chuyển trại
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)