Hiển thị các bài đăng có nhãn A 20 - Xuân Phước. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn A 20 - Xuân Phước. Hiển thị tất cả bài đăng

12.3.10

Mơ ngày bắc tiến


Bên nầy cửa sông đóng đây cũng được
căng mỏng ra tránh pháo chụp từ xa
nhất quyết tui sẽ đánh tới ngã ba
lấn chút nữa tui sẽ vào lăng giặc
đừng chơi phi pháo mình tui vào đó
đại bàng đưa đây, mấy quả chống tăng
nhất quyết chuyến nầy tui nối hết dây
nổ để trả ơn bảy năm bác tặng

Ta thức dậy mồ hôi còn thấm mặn
trăng tắt ngoài kia, ve hát giữa rừng
dãy xà lim hoàn toàn trong im lặng
ừ một giấc mơ, như ngày ở bưng
tội thân ta thù năm xưa còn nặng
ngủ không yên như vậy đã mấy năm
chuyện ngày trở về có vẻ xa xăm
nhưng tim óc không làm sao quên được

Trở mình lăn, cái cùm như quá cứng
nghiến vào cổ chân làm máu rỉ ra
khát khô cổ khiến ta mờ đôi mắt
ở ngoài kia có lẽ đã canh ba
nghĩ cũng tệ thân bị cùm treo cẳng
ta còn mơ chuyện ra bắc phá thành
ôi! đêm trường, ôi! xà lim vắng tanh
chỉ mình ta đang mơ ngày bắc tiến


nguyễn thanh-khiết
A 20 trong xà lim 1984







Trồng cây trên đồi đứng


Ta cõng cuốc mang phân người đi bón
Trên đồi cao hun hút giữa trưa hè
Những hố sắn trồng nắng nung cháy ngọn
Ta bón cây mà đời không bón ta
Cuốc cào, đá cứng, sỏi đau đời sỏi
Sắn chết từng cây ta chết dần theo
Đồi đứng đụng mây, mây tuôn màu khói
Ta đứng trên đồi, đồi đá cheo leo
Giặc núp sườn đồi lăm lăm nòng súng
Phân rải gió lay bay ngập mùi phân
Tù rạc lâu ngày tay chân bủn rủn
Bò xuống giữa đồi đã mỏi toàn thân
Đường về cổng trại dốc lên, dốc xuống
Băng vực, vượt cầu một gánh oằn vai
Đôi khi tiếc thân, phí đời oan uổng
Ta tự dỗ mình cố sống qua ngày

nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa hè 1984




Ngọn lửa tàn


Ta ngả sốt từ hơn nửa tháng
sốt khô da, sốt nứt hai môi
đêm khuya khát, bật dậy ngồi
nhìn bè bạn mỏi mòn say ngủ
dãy nhà giam đêm buồn ủ rũ
nước tiểu, phân người bốc mùi hôi
nơi ta nằm không đủ chỗ ngồi
lật ngữa, hai vai đè lên bạn
đời đi tù quá nhiều giới hạn
cái chết như con kiến nhỏ nhoi
lao phổi có khi thấy hẳn hoi
khạc một cái máu tươi dính miệng
sốt là thứ lặng lờ im tiếng
mê sảng rồi là coi như xong

Thiếp đi ta còn nghe em gọi
và tiếng con khóc nắm tay cha
có lẽ lần đầu ta nghe tiếng ba
chín năm đi biệt làm sao biết
con bao lớn, em già bao tuổi?
sống ra sao, em ở chỗ nào?
thư giặc cắt không cho ta gởi
ba năm rồi chẳng có một tin
có khi ta tự trách một mình
ngày ở bưng biền đừng về phố
đừng gặp em, đừng làm em khổ
giờ lỡ rồi một chuyến tàu qua
mang chi ta một gánh sơn hà
có làm được gì khi thua trận

Trong mê ta nói lời ân hận
nói thì thào, nói với rừng thiêng
với em còn một nỗi tình riêng
có lẽ đời nầy chưa trả được
với con ta không tròn trách nhiệm
tuổi chưa đầy cha đã ra đi
chín năm, chín năm chẳng ra gì
qua nhiều trại, xà lim, cùm kẹp
mùa hè khô trên bờ mi khép
mùa hè đau như cái chết gần
thôi coi như một đời lận đận
ta chết nơi nầy lòng không nguôi


nguyễn thanh-khiết
A 20 Hè 1986






Ba mươi tết trong tù


Hát chi bài ca quốc hận
Tám năm còn gì đợi mong
Tết năm nay buồn bất thần
Nói thì nói sao cứ trông

Nghe súng cắc cù bên núi
Tưởng quân về phá trại giam
Nghe cho đã rồi buồn tủi
Chuyện nhỏ có ai chịu làm

Thành xưa bỏ, giặc về chiếm
Lục lọi dăm khẩu súng quèn
Hứng khởi lên yên mài kiếm
Ba năm biên giới đã quen

Tù túng tám năm ở trại
Nhục vinh thân thế thấp hèn
Có khi nghĩ mình trót dại
Nhìn chi thế giới bon chen

Mai mốt có về dù muộn
Vô chùa gõ trống, đánh chuông
Để thấy đời mình oan uổng
Coi như ngựa đã về chuồng

Gốc đa, bồ tát, miếu chùa
Không biết có còn câu kinh
Lỡ mai gió sương héo úa
Ta còn một chỗ cho mình


nguyễn thanh-khiết
Tết ở A 20 1985





Điểm danh


Qua hết 83 ta về chung một trại
thượng vàng hạ cám còn có thế thôi
bốn quan tổng trưởng một đã đi rồi
dàn đại tá dăm ba ông còn lại
những cựu binh từng cầm lon trung tá
dăm ba que chưa đủ bộ văn phòng
mai bạc thì thôi đếm chục, đếm trăm
nhưng mà tiếc dàn chiến trường còn thiếu

Buồn ngồi nghĩ nếu phải bầu tổng thống
chẳng biết lựa ai trong mớ hổn mang
việc đó để sau ta từ từ bàn
giờ cần tính trước là hàng tổng bộ
Hồ văn Châm làm ơn đừng tính vô
nhục lòn cúi hồi trại E phải kể
ông Tỉnh đã có một thời quá khổ
lớn tuổi rồi để ông ấy nghỉ ngơi
ông Tịnh tư pháp cứng cựa chịu chơi
nhưng tiếc ông không thèm tham chính nữa
chỗ nầy bỏ qua một hồi sẽ tính
dàn tham mưu còn có đại tá Bền
bên Biệt Cách Dù có trung tá Thông
mấy năm tù tội ít nhiều có xuống
nếu không xong thử xem dàn thiếu tá
trẻ, hăng say, không chịu nhục, chịu hàng
ở trong tù tránh mấy kẻ giàu sang
thường ưa nịnh hót và hay làm bậy
vậy thì kiếm hết những tay còn trẻ
coi sơn hà như mạng sống ông cha
hô một tiếng là ầm ầm đứng dậy

Khi đói, khát bị cùm ta nghĩ bậy
để không nghe tiếng tắc lưỡi thạch sùng
tiếng não lòng, tiếng gọi thúc ta đi
như ngày đó khi quân tan, hàng rã
mấy năm ở tù chung ta thấy cả
ít ra còn một tuổi trẻ đáng thương
xem tù đày như ga nhỏ qua đường
nghỉ một lát rồi lên tàu đi tiếp
nhưng mà ông trời ưa chơi oan nghiệt
ưa thử bằng xương, bằng máu, mồ hôi
máu xương đã đổ xuống quá nhiều rồi
mà giặc còn chật nhà trông quá chướng

Hôm nay ta buồn sờ lên thép lạnh
cùm chữ U làm đau rát cổ chân
bảy năm hơn ta còn chút nghĩa ân
với sông núi chưa làm chi coi được
bảy năm hơn ta cầm như biết trước
chuyện quay về thì có, nhưng chắc lâu
chỉ sợ khi tóc đã bạc trắng đầu
sức đã kiệt không còn theo chân ngựa
ôi! đêm nay một vầng trăng quá nửa
lén thăm tù qua khe hở biệt giam
ta còn đây với tháng héo ngày tàn
mà cùm treo cứng vô phương cựa quậy

nguyễn thanh-khiết
Biệt giam ở A 20
1984







Cành mai vỡ vụn


Qua tết là bắt đầu thê thảm
Sau những ngày hò hát quốc ca
Duy Trác nhà nghề đi tiền trạm
Theo sau lần lượt hốt từng nhà
Biệt giam mùa xuân như mở hội
Vừa hết kẻ vào tới người ra
Những cái cùm bắt đầu nóng hổi
Lũ thép quen hơi máu người nhà
Giặc có cách lần dò dấu vết
Ta có chiêu tịnh khẩu như bình
Lẽ dĩ nhiên rốt cùng đoạn kết
Cái thắng về phần kẻ cầm binh
Sau tết ngồi thương cành mai vỡ
Mai vỡ từng cành ta thấy đau
Hôm nào cao giọng cùng hớn hở
Bây giờ tan tác buồn làm sao
Chung một con sông cùng chèo chống
Qua khúc quanh xuồng gãy tay chèo
Nước cuốn bèo trôi nhìn vô vọng
Chiếc lá trên cành cũng buồn theo
Biệt giam chỉ cách vuông sân rộng
Giặc gác ngày đêm trên tháp cao
Nhiều khi cũng muốn giang tay chống
E động khắp vùng gây xôn xao
Những cánh mai vàng chưa phai nhụy
Rụng tan thương dưới đám gió rừng
Buồn quá đỗi thèm làm chốt thí
Đổi lái một lần để qua bưng
Tám năm ta hoá thành nhu nhược
Thấy chết can tâm trố mắt nhìn
Suy cạn nghĩ cùng thôi nhường bước
Cố nén cho qua cơn bực mình

nguyễn thanh-khiết
Sau tết 1982





Giọt nước thần kỳ


ở mãi xà lim mọi người kiệt sức
nằm kề nhau như những xác không hồn
tất cả bây giờ giống tựa chưa chôn
thoi thóp chờ tới khi tim đứng lại
không tính được bây giờ tháng mấy
là ngày nào từ lúc bước vô đây
những dấu gạch dọc, ngang để tính ngày
giờ không còn chỗ gạch thêm cái nữa
lâu lắm không có thằng đi làm việc
tính ngược, tính xuôi thử kế mấy lần
lâu lắm rồi khát từ đầu xuống chân
phải chi có một ngụm ngon biết mấy
ở xà lim thì luôn luôn tính kế
né câu hỏi cung, giữ vẹn an toàn
giữ cho bạn bè, giữ nghĩa trung cang
và tính tới cách đi tìm nước uống
cách đơn giản là hét to báo bệnh
thằng phải ra khai sốt, giả nằm im
cố đi tiểu, rồi căng bụng uống thêm
trở lại đái ra cho thằng khác uống
cách thứ hai xin ra khai chi tiết
kéo dài buổi cung, đi tiểu nhiều lần
trước khi vào uống và đứng dang chân
uống cho đến khi không còn sức uống
Trại Trừng Giới có bề dày lịch sử
có chiều cao của mấy lớp xác tù
có chiều sâu máu chảy những biệt khu
và có cả một bề dầy kinh nghiệm
A 20 nơi tự hào nung thép chảy
cũng là nơi có một Vũ hùng Cương
đã từng uống nước tiểu Nguyễn Tú Cường
trong cuộc chiến dằng dai và bất khuất


nguyễn thanh-khiết
Trại Trừng Giới A 20, 1984






Chết khát


Khi đã cạn cùng không còn sức bật
người tù sờ trên thép nóng và khô
lòn ngang cùm thanh thép cứ trơ trơ
tỳ lên gót chân nhiều ngày mưng mủ
quanh cổ chân nửa thân cùm trong đó
da bong sần sùi, đọng chút máu tươi
mấy tháng xà lim toàn thân rả rượi
nhấc một cánh tay cũng khó vô cùng

Đói thì không kể nhưng còn cái khát
khát tới chết người, khát nứt nẻ môi
khắp cả người không có giọt mồ hôi
dù nắng mùa khô như nung rực lửa
hết nước, là cạn cùng một đời sống
người như căng tròn lỏng bỏng dưới da
cần cổ nóng ran không thể thở ra
miệng há hốc nước miếng khô quánh lại

Hết nước, máu cơ hồ không còn chảy
người nặng nề xương cốt chẳng dính nhau
hết nước, người tù như ở trên cao
cứ lơ lửng và nhịp tim chậm lại
hết nước, mắt mờ mờ không khép kín
cánh mũi phồng lên để lấy hơi vô
tai vo vo như có tiếng mơ hồ
dăm phút nữa con tim sẽ ngừng lại


nguyễn thanh-khiết
A 20 những ngày ở xà lim






Ngày em đến thăm


Bẵng một dạo từ khi rời trại cũ
Năm năm giữa rừng em tới thăm ta
Tội thân em gồng gánh vượt đường xa
Mà Phú Khánh mùa nầy trời mưa lũ

Em nhỏ nhoi vì đâu thêm vai nặng
Có sá gì một căn kiếp đời ta
Ta muốn ôm hôn khi em khóc oà
Cách mấy bước mà như xa vạn dặm

Xưa em ngoan môi hồng luôn tươi thắm
Chỉ mới bao năm tóc đã màu phai
Xót cho em vì ta mà oan trái
Đau lòng ta, em gầy guộc hơn xưa

Ôm con thơ em đã khóc bao mùa
Chờ hết kiếp người xưa chưa quay lại
Em ơi về đi, em đừng trở lại
Nợ gối chăn nầy phải hẹn lần sau

Ta lỡ đã đi trên một chuyến tàu
Qua ga một đỗi rồi đi xa nữa
Bến đổ chưa bao giờ ta chọn lựa
Đi mà đi cho bằng hết hơn thua

Em ơi về đi, em đừng tới nữa
Đau chừng ấy rồi phải để em nguôi
Nghe lời ta, đừng bỏ con mồ côi
Với nó, ta thương mà không dám nhớ


nguyễn thanh-khiết
phân trại B – A 20, 1984







Rừng mía ngọt


Rừng mía kéo từ đồi qua con suối
đi trên cao nhìn như bãi cỏ hoang
mía ba năm gốc đã đến ngày tàn
tàn như đám tù nhiều năm ở trại
mía xác xơ thân bằng ngón chân cái
đường mật vắt kiệt từ lúc đặt hom
tù trồng mía nghe mùi đường đã tởm
răng không còn lấy gì bóc vỏ ăn

Đội dàn ngang cầm rựa cùn chặt mía
lá cắt nát tay, rát, ngứa và đau
dưới chân tù gốc cũ nhọn như dao
xuyên qua lớp dép mòn như lưỡi cạo
mía ngả giống như xác người gục xuống
chồng chéo nhau y hệt bãi chiến trường
ba năm trồng, sau mấy phút dọn đường
rừng mía hoang tàn như sau trận giặc

Vác mía về, đường xa mờ trong nắng
tháng 6 mùa Lào thổi ngọn gió khô
chân bám mặt đường khát khô trong cổ
tay gồng ôm bó mía nặng trên đầu
dốc xuống, dốc lên, gai rừng nhọn hoắt
cạn mồ hôi muối mặn nổi trên lưng
giặc thúc phía sau hò hét không ngừng
tù như một đàn bò ngơ ngác bước

 
nguyễn thanh-khiết
phân trại B –A 20, tháng 6-1984






Mưa lũ tháng 10

Tháng 10 nước lên, miền trung mưa lũ
Ba mươi ngày đói, rét giữa nhà giam
Nghe tin Trà Bương nước đã chảy tràn
Tiếp tế trại như đi xuồng trên biển
Độc đạo vào đây đoạn đường tai biến
Toàn trại tù hứng hết mọi tang thương
Lạnh cắt da quần áo vá trăm đường
Chỉ bằng bao cát, vết khâu đứt đoạn
Mưa miền trung ngắn, dài rơi ngao ngán
Xót đời tù khi nước mất nhà tan
Tháng 10 khắc khe đói rét chưa tàn
Giặc lại cướp dã man đồ tiếp tế
Những chuyến tàu qua La Hai ghé trễ
Trung chuyển bằng xuồng những gói quà con
Thân nhân gởi đi như lẽ sống còn
Mong kịp cứu những thân tù đói rã
Giặc nhẫn tâm bày trò làm phép lạ
Quà sang sông là ném dọc đường đi
Trời sao sinh bác, đảng chẳng ra gì
Trấn lột toàn dân, trại tù cũng tính
Tháng 10 miền trung, đau bầu sữa mẹ
Đàn con vẫy vùng, chết giữa Trường Sơn
Xương trắng năm xưa trả lại căm hờn
Khi cuộc chiến đã phai màu binh lửa


nguyễn thanh-khiết
A 20 mùa mưa 1983






Bầy chim gãy cánh

















 

Những tiếng súng vang trong chiều rờn rợn
bảy cánh chim đã hút giữa rừng cây
Phú khánh mùa nầy gió thổi mưa bay
tiếng báo động vẫn rền vang vách núi
những cánh chim đầu đàn của quân binh thuở trước
vùng vẫy đi vào huyền sử trại giam
lần đầu tiên giặc thảng thốt, kinh hoàng
từ dựng trại chưa con kiến nào qua lọt
bảy con chim, vượt qua từng giới hạn
một cánh dù làm mũi nhọn chuyến bay
và mưa rơi, mưa trút xuống tơi bời
xoá vết chân của bầy chim đang tìm chỗ đậu

Liên trại bị hành trong cơn cuồng nộ
súng gờm gờm, giặc lùng sục khắp trại giam
bảy cánh chim bay cả đàn như bị bẫy
mặc trời mưa lệnh xét trại tốc hành
giặc không chừa một ngóc ngách, một vết đinh
bới tung toàn trại cố tìm dấu vết
cả đàn như đang buổi cầu kinh
im lặng nguyện cầu cho những cánh chim vừa bay hút
mưa vẫn rơi, đường rừng muôn gai góc
có an toàn cho những cánh thiên di
mưa che không, gió bảo vệ được gì?
Núi trùng trùng, miền trung ma thiêng nước độc
Trường Sơn xưa những ngày tang tóc
hãy rộng vòng tay đón chiến sĩ về nguồn
mẹ Việt-Nam ơi bảy đứa con ngoan
vừa thoát gông cùm trở về bên gối mẹ

Ngày qua đi, ngày nín thở lắng nghe
im lặng mà nghe tóc tang gần lại
ôi Phú Bổn! trên bản đồ chỉ cách một gang tay
trên thực địa đường rừng đi là mấy
tang thương chưa bên bờ suối chảy
súng đạn kẻ vô thần làm gãy sáu cánh bay
con chim cuối một tiền sát quen tay
đã thoát chết khi rời đàn qua biên giới

Tin đau sau cùng đã về tới trại
tất cả nghẹn ngào hét tiếng bi ai
như bị đốn ngả không làm sao vươn dậy
tang thương chưa, nơi nầy không đất sống
bay đi xa tưởng trở lại quê nhà
rồi bây giờ đâu đó giữa rừng xa
nắm xác bỏ lạnh lùng không hương khói
tang thương chưa núi rừng ơi hỡi
hiển linh gì sao giúp giặc bỏ tình xưa
xót xa chưa mẹ Việt-Nam, mẹ Việt-Nam ơi
những con của mẹ với căm thù nầy làm sao trả


nguyễn thanh-khiết
Để tưởng nhớ 7 anh hùng ở A 20
Và cuộc vượt trại ngày…13-11-1980…
Nén nhang cho TQLC trung uý Nguyễn Ngọc Bửu
người anh tôi không quên




Món ăn thời tiền sử


Những lát sắn khô còn nguyên cả vỏ
Mang cái tên có đủ các mùi hương
Khoai mì Ấn Độ ơn đảng ban cho
Cư dân Phú khánh thấy là nôn mửa
Sắn thái lát giữa đồi hoang cỏ cháy
Dính cả phân người, cỏ rác, đất đen
Đổ hết vào nồi ninh suốt một ngày
Cân cả nhựa đem chia ra từng đội
Khi sắn nguội nhựa như keo màu xám
Nhớt và tanh ruồi nhặng khoái bám quanh
Đó là thức ăn đong đo hàng tháng
món chính của tù sau thế kỷ 20
cơm ở đây không phải một chén đầy
chỉ phân nửa và triền miên nước muối
Hoà bình xong, độc lập chưa đủ dầy
Đảng bảo ăn sắn khô mà chuộc tội
Sắn lát là khoai mì không thái nhỏ
Bác dạy cắt lát to mà phát cho tù
Đảng quang vinh cơ hồ như nói nhỏ
Hết tập trung rồi đảng đổi món cho


nguyễn thanh-khiết
A 20 những năm 80-87






Khai trận


Trận địa bắt đầu như cảnh báo
Giặc mở màn trò xé lẻ nhau
Chính trị phạm, tù binh, quân đội
Chung một nhà cho nghi kỵ nhau

Đòn chào đầu, khai đao chuyện cũ
Chụp chảo, biệt giam, đủ thứ trò
Tra tấn tinh thần, cùm, dụ dỗ
Chuyện nhỏ trong tù, cũng hoá to

Mùa mưa đường đứt, không liên lạc
Tù ngóng tin nhà, giặc thản nhiên
Thay cơm giặc phát bo bo đá
Mặc xác tù ăn phải giã, nghiền

Nửa chén bo bo, khoai ba lát
Gánh nặng lên đồi tù ngả nghiêng
Lao phổi lan tràn, qua dịch tả
Chết ở trại nầy, quá tự nhiên

Đồi vĩnh biệt chắn ngang ngoài trại
Từ đỉnh chôn dần xuống cuối chân
Bia mộ lờ mờ hai cây chéo
A 20 cái chết đến thật gần

nguyễn thanh-khiết
ngày đầu ở A 20
1980





Đường về địa ngục






















Những cổ xe xếp dài bên rừng Lá

những cái tên được nhắc lại hai lần
hành trang ta mang, ba năm đủ cả
hận, đau, buồn, lẫn chút bâng khuâng
Lên xe ngó một màu rừng đêm tối
ánh sao trên trời chớp chớp tiễn đưa
ta ở ba năm khi đi cũng bồi hồi
con suối, biệt giam, ngày về đã hứa
Ra quốc lộ xe ngược về phương bắc
ánh mắt thăm dò, bè bạn ngó nhau
chỗ này Nha Trang nhìn qua song sắt
ta thở dài Sài-Gòn tuốt phía sau
Lên đèo Cả sương mù che hướng núi
biển sớm mai mờ mờ phía dưới xa
biển bao la, biển chẳng biết ngậm ngùi
ta đang bị đày đi nơi xứ lạ
~*~ ~*~
Xe đưa tù trở mình qua độc đạo
thiết lộ hoang vu nắng hực xuống đầu
bụi đỏ mù bay, mắt nhìn lơ láo
Trường Sơn trùng trùng đá dựng trên cao
La Hai xác xơ, cửa nhà hoang phế
trưa chang chang cỏ cháy dọc đường tàu
những lỗ châu mai như còn kể lể
chiến địa ngày nào, xương trắng rừng cao
Con sông Trà Bương vắt ngang đường núi
vạch một dấu nghẹn ngào chia trần gian
mùa khô xe lăn trên bầy đá cuội
mưa về chỉ duy nhất chuyến đò ngang
Xuân Phước tận cùng A 20 điểm cuối
vùng rừng thiêng nước độc đã bao đời
một ngày và đêm cổ xe tù đầy bụi
dừng bên đường như một chuyến rong chơi

nguyễn thanh-khiết
ngày đầu tới A 20, 05-1980