13.4.10

Hai màu áo trận


Ta ở núi tây nhìn sang đông
giang sơn chỉ chảy có một dòng
mười năm nước cạn, bờ này ngóng
sơn hà chỗ đó vói tay không

Ta ở trại nầy đúng sáu năm
chuyển qua, chuyển lại biết mấy lần
vẫn cái trại tù trong thung lũng
cùng một đống người gọi tha nhân

Tha nhân vịn níu thành chung phận
cùng tắm gió mưa một trại tù
ta thân hỉ mũi còn chưa sạch
bên những cội già như trăng lu

Khoái vùng vẫy ta thành nghiệp chướng
thích vung tay ta quẩy phong trần
gió dập cội già nghiêng bốn hướng
mười năm tù phải ngứa tay chân

Tay nhớ thép đen bung ánh lửa
chân tiếc một thời đạp núi non
nay ở chật, trời xanh đâu nữa
cuộc mười năm coi thử mất còn

Mười năm hí hửng ta đi trước
mặc kệ gốc già chết sau lưng
rễ nát ngáng chân làm sao bước
rừng cứ mọc cao chẳng thể ngừng

Ngoái cổ nhìn sau ta ngán ngẩm
những gốc già không trụ mười năm
rỗng ruột, mục thân, vàng khô lá
đường về bến cũ vẫn biệt tăm

Ta ở trại nầy đúng sáu năm
trơ trơ con mắt ngó lăm lăm
ơi hỡi trần gian buồn quá đỗi
những gốc già kia vướng chỗ nằm


  nguyễn thanh-khiết
A 20 tháng 2 năm 1987








Mùa xuân năm thứ mười


Cánh cổng mùa xuân giờ sắp khép
đóng thiên thu nhốt một Việt-Nam
bên ngoài xa nhìn vào cũng đẹp
cũng sơn son phết đỏ đủ màu

vén áo lên thấy đầy những máu
tuột hết quần chỉ thấy xương khô
đảng vét sạch không còn cơm áo
bác xúi quơ quào hết Trung, Nam

coi bộ mười năm ở trại giam
chưa chết đói là ta may mắn
tội cho má ta nhiều can đảm
bán sạch ruộng vườn nuôi dưỡng con

thăm ta là phải vượt Trường-Sơn
qua hết rặng phía đông ngút mắt
thằng Sáu của má giờ đã lớn
ba năm bỏ nhà ở trong bưng

nó mười năm chống tiếp giữa rừng
ở trại bị cùm đâu cho gặp
coi như nó chết từ trong trứng
đảng mà còn má phải mất con

coi bộ mười năm ở núi non
với căm thù mỗi năm chất ngập
sang năm ta phải tới Sài-Gòn
đòi giặc trả một lần cho hết

cánh cổng mùa xuân giờ còn khép
kín bên trong cả nước đi tù
sử bao trang chỗ nào để chép
những trại thù bác, đảng đặt tên


 nguyễn thanh-khiết
A20 – 1987





Mười hai tháng ở trại tù


Tháng giêng không một cánh mai tàn
giữa trại giặc mùa xuân trốn mất
mười năm còn chi, chờ ngao ngán
Trường Sơn giết dần vạn sinh linh

Tháng hai mở đầu năm kế hoạch
đạt chỉ tiêu dâng đảng xác tù
phá rẫy, khai hoang, chào chính sách
cuốc rừng, lấp lũng hết tháng hai

Tháng ba thu mía về nạp trại
cống phẩm làm quà đám đảng viên
đào hố trồng khoai, mang phân rải
tù chết dần bác, đảng y nguyên

Tháng tư đặt hom trên đồi sắn
tù phải trồng, thay gạo hằng năm
sắn Ấn Độ độc tố càng tăng
bác gọi nó là đệ nhất phẩm

Tháng năm đừng mơ ngày Đoan Ngọ
đời đi tù chẳng phút nghỉ tay
sáng mai đứng cuốc trên đỉnh gió
chiều xuống lên giồng mỏi hai tay

Tháng sáu mồ hôi đầm lưng áo
gió hạ Lào thổi rát trên da
thung lũng tử thần nơi gió bão
nơi cùm gông máu ứa thây người

Tháng bảy mưa ngâu không thể có
nắng vẫn khô đốt nóng đêm trường
ngày mai sắn chết coi như bỏ
tù sẽ đói hơn ôi! Trường Sơn

Tháng tám treo giò chờ mưa lũ
chẳng còn gì chuẩn bị cho mưa
rét run, co ro giữa trại thù
nhìn bè bạn về đồi vĩnh biệt

Tháng chín sức người giờ đã kiệt
ba lát khoai khô lực phải tàn
gạo mục làm toàn thân tê liệt
mùa bão về, đợi chết từng đêm

Tháng mười vào đông sương trắng trại
dãy biệt giam vẳng tiếng thở dài
bạn bè ta xương da còn lại
đang chết dần, chết chậm, chết đau

Tháng mười một, rừng khô lá ải
bao tử trống trơn loét và đau
nghiền than làm thuốc đều khắp trại
nửa đêm về nghe tiếng ai rên

Tháng mười hai, năm tàn nguyệt tận
vắt tay lên trán đếm từ đầu
một năm qua, nhớ nhà dăm bận
nói cho cùng chỉ nhục và đau

 
nguyễn thanh-khiết
năm thứ mười ở trại







12.4.10

Mơ đêm rồi lại tưởng ngày


Suốt một đêm bỏ ngủ nằm mơ tưởng
ước chi ta mọc cánh bỏ về nhà
thăm cái chòi tranh, có dòng sông lượn
vợ dại, con thơ chắc đã đi xa
mười năm chẳng biết đường nào trở lại
hết cả kiếp tù chỉ núi và non
chim lạc rừng kêu làm ta tê tái
nợ nước, tình riêng nghĩ mãi không còn

Suốt một đêm bỏ ngủ nằm mơ tưởng
ước chi ta giống một gã Tề thiên
nhổ lông nách hoá thân đầy bốn hướng
phá nát trại giam trên khắp ba miền
vượt Thạch Hãn ào ra cày đất bắc
đập nát “lăng hồ”, tắm máu Phú-Yên
lục tung Hà-Nội, xoá tên đảng tặc
trời! nghĩ tới ngày này ta sướng điên

Suốt một đêm bỏ ngủ nằm mơ tưởng
tưởng cái ngày ra trại xót cho ta
hiên ngang một thuở bưng biền phất phưởng
ba năm giang hồ yên ngựa đã qua
để giặc ban ơn tha về khỏi trại
cái nhục nầy ta rửa mấy cho trôi
trời sinh ra chi cái trò oan trái
biết vậy sa cơ, tự vẫn cho rồi

Suốt đêm mơ cuối cùng trời cũng sáng
buông tiếng thở dài ngó ánh sao mai
cửa sổ nhà giam nhắc chừng giới hạn
buồn lòng ta ngày lại một qua ngày
vác cuốc lên đồi dưới nòng súng giặc
sắp hàng đi mơ tiếp chuyện vượt rừng
ước chi can trường vượt qua trại giặc
cùng dăm thằng tiếp tục bỏ vô bưng


Tiếng cuốc gõ vang trên sườn đá cứng
tan chuyện mơ đêm, nát mộng ban mai
nắng rát da người trưa treo bóng đứng
chút nữa chiều trôi lại hết một ngày
mười năm tưởng tượng theo như cơm bữa
tưởng để quên, để nhớ những nhục hình
sáng ra thức dậy mộng không còn nữa
đêm trong tù mộng giống một bài kinh


nguyễn thanh-khiết
A 20 1987







9.4.10

Mùa khô ở Xuân-Phước


Cả thung lũng tử thần khô dưới nắng
nứt nẻ da người, bong tróc trường sơn
gió Lào bốc hơi rang chín trại tù
mồ hôi chảy mắt mờ đi lên dốc
phá núi, dọn rừng, giặc giăng hàng cọc
chỉ tiêu đảng dành ngày một cho tù
mấy lát khoai cõng vài hạt cơm khô
chén canh rau bằm không hơn ba cọng
đêm khát nằm nghe rừng kêu, gió lộng
mỏi mê với trò họp đội, họp nhà
đấu tố bài đầu đảng dạy, bác lo
lấy bao tử làm thước đo chính sách

A 20 mùa khô suối nguồn chảy sạch
trơ dưới dòng bầy đá nhọn buốt chân
lũ rau hoang ngọn lá đã cháy vàng
trại chết khát, đám tù thêm cái đói
hái vội cụm cúc rừng tàn mùa nắng
mấy cọng rau sam còi cọc bên đường
nồi canh của tù chỉ là chất độn
đánh lừa bao tử cào xót đáng thương
chín năm quay nhìn làm ta kinh ngạc
bằng cách nào ta sống được chín năm
đói, rét, khát, đau, hận ngút trong lòng
trong trại giặc, cùm gông thời đồ đá


nguyễn thanh-khiết
mùa gió Lào 1986